Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Như Tự Soi Gương

16 Tháng Sáu 201516:57(Xem: 9516)
Như Tự Soi Gương

NHƯ TỰ SOI GƯƠNG 

Đức Chánh


Như Tự Soi GươngTheo truyền thống giới luật của đạo Phật thì vào mỗi nửa tháng, tất cả người xuất gia đều cùng nhóm họp tại một trú xứ nào đó để lắng nghe vị Luật sư (Vinayadharo) tuyên thuyết giới luật mà họ đã phát nguyện lãnh thọ gọi là lễ Bố-tát(Uposatha). Mục đích của buổi lễ này là nhằm tạo cơ hội cho người xuất gia tịnh hóa bản thân dẫn đến sự thanh tịnhhòa hợp của tập thể Tăng-già. Nếu người xuất giavi phạm bất kỳ giới điều nào trong các điều luật được tụng đọc (hoặc tự nhận ra hoặc do người khác chỉ bảo) thì tự thú nhận trước Tăng chúng và nguyện ăn năn sám hối, quyết không để tái phạm. Nếu không vi phạm thì giữ tâm niệm hoan hỷ im lặng. Đây là cơ hội giúp cho người xuất gia kiểm thảo lại tư cách đạo đức của mình trong đời sống cá nhân và trong các sinh hoạt tập thể, tựa như một người nhìn vào gương để thấy rõ khuôn mặt của mình vậy. Do đó mà giới luật Phật giáo có câu:
Như người tự soi gương, Đẹp xấu sanh vui buồn; Thuyết giới cũng như vậy, Toàn, hủy, sanh mừng lo.

Bên cạnh lễ Bố-tát thuyết giới được tiến hành nửa tháng một lần và mang ý nghĩa vừa tịnh hóa cá nhân vừa tịnh hóa tập thể, trong đời sống sinh hoạt hàng ngày, người xuất gia thường xuyên dùng Chánh pháp (lời Phật dạy) hay Giới luật làm gương để soi rọi các hành vi của mình gọi là “phản tỉnh” (paccevekkhana)1. Việc người xuất gia thường xuyên soi “gương Chánh pháp” hay “gương Giới luật”như vậy cốt yếu là để giúp cho vị ấy nhận rõ các hành vi thiện hay bất thiện của mình, qua đó mà có thái độ ứng xử cho đúng pháp hay đúng với tinh thần lời Phật dạy. Căn bản của nếp sống tiến triển giới đứcgiải thoát tâm linh của người xuất gia nằm ở chỗ vị ấy thường xuyên giác tỉnh hay phản tỉnh về mọi hành vi thuộc thân, miệng, ý của mình, nhận rõ chúng là thiện hay bất thiện để tinh tấn tu tập. Nếu chúng là thiện thì sinh tâm hoan hỷnỗ lực làm thêm. Nếu chúng là bất thiện thì phải sinh tâm xấu hổ sợ hãi (tàm quý) mà kiên quyết từ bỏ. Đây gọi là phương pháp tịnh hóa ba nghiệp (tikamma-parisodhana) hay thực tập Chánh tinh tấn (Sammà-vàyàma), tức nỗ lực dứt trừ mọi điều ác và nỗ lực làm các việc lành, trên cơ sở xem xét thân hành, khẩu hành và ý hành của chính mình hay phản tỉnh tự nội. Sau đây là một trong số các cách phản tỉnh như vậy, được ngài Mục-kiền-liên nói với các vị đồng phạm hạnh2:

“Chư Hiền, ở đây, Tỷ-kheo cần phải quán sát như sau: “Không biết ta có ác dục, có bị ác dục chi phối không?”. Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo quán sát và biết rằng: “Ta có ác dục và bị ác dục chi phối”, thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy cần phải tinh tấn đoạn trừ các ác, bất thiện pháp ấy. Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo quán sát và biết rằng: “Ta không có ác dục, không bị ác dục chi phối”, thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy phải sống với tâm niệm hoan hỷ, ngày đêm tu học các thiện pháp.

Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo phải quán sát như sau: “Không biết ta có khen mình chê người hay không?”… Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo quán sát và biết rằng: “Ta không có khen mình chê người”, thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy phải sống với tâm niệm hoan hỷ, ngày đêm tu học các thiện pháp.

Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo phải quán sát như sau: “Không biết ta có phẫn nộ, có bị phẫn nộ chi phối không?”… Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo quán sát và biết rằng: “Ta không có phẫn nộ, không bị phẫn nộ chi phối không”, thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy phải sống với tâm niệm hoan hỷ, ngày đêm tu học các thiện pháp.

Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo phải quán sát như sau: “Không biết ta có hiềm hận, có bị hiềm hận chi phối không?”… Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo quán sát và biết rằng: “Ta không có hiềm hận, không bị hiềm hận chi phối”, thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy phải sống với tâm niệm hoan hỷ, ngày đêm tu học các thiện pháp.

Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo phải quán sát như sau: “Không biết ta có cố chấp, có bị cố chấp chi phối không?”… Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo quán sát và biết rằng: “Ta không có cố chấp, không bị cố chấp chi phối”, thì chư Hiền, Tỷ- kheo ấy phải sống với tâm niệm hoan hỷ, ngày đêm tu học các thiện pháp.

Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo phải quán sát như sau: “Không biết ta có nói lời liên hệ đến phẫn nộ không?”… Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo quán sát và biết rằng: “Ta không có nói những lời liên hệ đến phẫn nộ”, thì chư Hiền, Tỷ- kheo ấy phải sống với tâm niệm hoan hỷ, ngày đêm tu học các thiện pháp.

Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo phải quán sát như sau: “Ta bị buộc tội, không biết ta có chống đối vị đã buộc tội ta không?”… Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo quán sát và biết rằng: “Ta bị buộc tội, ta không có trở lại chống đối vị đã buộc tội ta”, thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy phải sống với tâm niệm hoan hỷ, ngày đêm tu học các thiện pháp.

Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo phải quán sát như sau: “Ta bị buộc tội, không biết ta có trở lại chỉ trích vị đã buộc tội ta không?”… Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo quán sát và biết rằng: “Ta bị buộc tội, ta không có trở lại chỉ trích vị đã buộc tội ta”, thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy phải sống với tâm niệm hoan hỷ, ngày đêm tu học các thiện pháp.

Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo phải quán sát như sau: “Ta bị buộc tội, không biết ta có trở lại chất vấn vị đã buộc tội ta không?”… Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo quán sát và biết rằng: “Ta bị buộc tội, ta không có trở lại chất vấn vị đã buộc tội ta”, thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy phải sống với tâm niệm hoan hỷ, ngày đêm tu học các thiện pháp.

Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo phải quán sát như sau: “Ta bị buộc tội, không biết ta có tránh né vấn đề với một vấn đề khác, trả lời ra ngoài vấn đề, để lộ phẫn nộ, sân hận, bất mãn của ta không?”… Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo quán sát và biết rằng: “Ta bị buộc tội, ta không có tránh né vấn đề với một vấn đề khác, trả lời ra ngoài vấn đề, để lộ phẫn nộ, sân hận, bất mãn của ta”, thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy phải sống với tâm niệm hoan hỷ, ngày đêm tu học các thiện pháp.

Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo phải quán sát như sau: “Ta bị buộc tội, không biết ta có giải thích thỏa mãn hành động của ta cho vị buộc tội biết không?”… Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo quán sát và biết rằng: “Ta bị buộc tội, ta có giải thích thỏa mãn hành động của ta cho vị buộc tội biết”, thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy phải sống với tâm niệm hoan hỷ, ngày đêm tu học các thiện pháp.

Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo phải quán sát như sau: “Không biết ta có hư ngụynão hại không?”… Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo quán sát và biết rằng: “Ta không có hư ngụy và não hại”, thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy phải sống với tâm niệm hoan hỷ, ngày đêm tu học các thiện pháp.

Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo phải quán sát như sau: “Không biết ta có tật đố và xan tham không?”… Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo quán sát và biết rằng: “Ta không có tật đố và xan tham”, thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy phải sống với tâm niệm hoan hỷ, ngày đêm tu học các thiện pháp.

Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo phải quán sát như sau: “Không biết ta có gian trá và lường gạt không?”… Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo quán sát và biết rằng: “Ta không có gian trá và lường gạt”, thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy phải sống với tâm niệm hoan hỷ, ngày đêm tu học các thiện pháp.

Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo phải quán sát như sau: “Không biết ta có ngoan cốquá mạn không?”… Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo quán sát và biết rằng: “Ta không có ngoan cố và quá mạn”, thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy phải sống với tâm niệm hoan hỷ, ngày đêm tu học các thiện pháp.

Lại nữa, chư Hiền, ở đây Tỷ-kheo cần phải quán sát như sau: “Không biết ta có chấp trước thế tục, cố chấp tư kiến, tánh khó hành xả không?”. Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo quán sát và biết rằng: “Ta có chấp trước thế tục, cố chấp tư kiến, tánh khó hành xả”, thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy cần phải tinh tấn đoạn trừ những ác, bất thiện pháp ấy. Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo quán sát và biết rằng: “Ta không chấp trước thế tục, không cố chấp tư kiến, tánh dễ hành xả”, thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy phải sống với tâm niệm hoan hỷ, ngày đêm tu học thiện pháp”.

Chư Hiền, nếu trong khi quán sát, Tỷ-kheo thấy rõ rằng tất cả các ác, bất thiện pháp chưa được đoạn trừ trong nội tâm, thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy cần phải tinh tấn đoạn trừ các ác, bất thiện pháp ấy. Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo trong khi quán sát thấy rõ rằng tất cả các ác, bất thiện pháp đã được đoạn trừ trong nội tâm, thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy phải sống với tâm niệm hoan hỷ, ngày đêm tu học thiện pháp.

Chư Hiền, ví như một phụ nữ hay một đàn ông trẻ tuổi, trong tuổi thanh xuân, tánh ưa trang điểm, tự quán sát mặt mày của mình trong một tấm kính sạch sẽ và trong suốt, hay trong một bát nước trong sáng. Nếu người ấy thấy bụi bặm hay cấu uế trên mặt mình, thì người ấy tinh tấn đoạn trừ bụi bặm hay cấu uế ấy. Nếu người ấy không thấy bụi bặm hay cấu uế trên mặt mình, thì người ấy sẽ hoan hỷ nghĩ rằng: “Thật sự ta được điều tốt đẹp; thật sự ta được thanh tịnh”. Cũng vậy chư Hiền, nếu trong khi quán sát, Tỷ-kheo thấy rõ rằng tất cả các ác, bất thiện pháp chưa đoạn trừ ở nội tâm, thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy cần phải tinh tấn đoạn trừ các ác, bất thiện pháp ấy. Chư Hiền, nếu Tỷ- kheo trong khi quán sát thấy rõ rằng các ác, bất thiện pháp đã đoạn trừ ở nội tâm, thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy phải sống với tâm niệm hoan hỷ, ngày đêm tu học thiện pháp”.

Nhìn chung, người xuất gia có nhiều cơ duyên thuận lợi để hoàn thiện tư cách đạo đức hay nếp sống đức hạnh của mình. Đó chính là Giới luật Phật chế được tuyên thuyết mỗi nửa tháng trong sinh hoạt Tăng-già, bên cạnh Chánh pháp hay những lời Phật dạy được lưu giữ trong các bản kinh mà người xuất gia phải tìm hiểu học hỏithực tập hàng ngày. Ngoài ra, bầu không khí thanh tịnhhòa hợp thể hiện trong nếp sống Tăng- già hay gương sáng đạo hạnh của chư vị tôn đức cộng trú cũng là yếu tố hỗ trợ và khích lệ rất lớn cho vị ấy về phương diện tiến triển giới đức. Nói cách khác, người xuất gia có “gương Giới luật”, “gương Chánh pháp” và “gương Tăng-già” giúp cho mình soi rọi và phản tỉnh hàng ngày, nhờ đó tư cách đạo đức hay giới hạnh của vị ấy càng được củng cố và phát triển. Người xuất gia càng khéo vận dụng các loại “gương đức hạnh” này để xem xétphản tỉnh về chính mình thì giới đức, tâm đức, tuệ đức, giải thoátgiải thoát tri kiến đức của vị ấy càng có dịp tiến triển, cùng lúc vị ấy hưởng được nhiều hạnh phúcan lạc lớn; vì khi một người có giới hạnh, theo thiện pháp, không vi phạm điều xấu ác, thì theo đó cuộc sống sẽ đổ đầy niềm vui và tuần tự tiến bộ dẫn đến hoàn thiện 3, như lời Đức Thế Tôn từng giảng giải cho Tôn giả Ànanda:

“Này Ànanda, giới hạnhý nghĩa không hối tiếc, có lợi ích không hối tiếc. Không hối tiếcý nghĩa hân hoan, có lợi ích hân hoan. Hân hoaný nghĩa hoan hỷ, có lợi ích hoan hỷ. Hoan hỷý nghĩa khinh an, có lợi ích khinh an. Khinh aný nghĩa an lạc, có lợi ích an lạc. An lạcý nghĩa định, có lợi ích định. Định có ý nghĩa như thật tri kiến, có lợi ích như thật tri kiến. Như thật tri kiếný nghĩa nhàm chán, ly tham, có lợi ích nhàm chán, ly tham. Nhàm chán, ly thamý nghĩa giải thoát tri kiến, có lợi ích giải thoát tri kiến. Như vậy, này Ànanda, các thiện giới thứ lớp dẫn tới tối thượng. Như vậy, này Ànanda, các thiện giới thứ lớp đưa đến tối thượng”4.■

Chú thích:

  1. Kinh Giáo giới La-hầu-la Am-bà-la lâm, Trung Bộ.
  2. Kinh Tư lượngTrung Bộ.
  3. Mã ấp tiểu kinhTrung Bộ.
  4. Kinh Có lợi ích gì, Tăng Chi Bộ
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 594)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 778)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1100)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1268)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 997)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1338)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 788)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 761)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 807)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 823)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 801)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 790)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 945)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 833)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 988)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 1005)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 929)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 931)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 857)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1014)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 954)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 897)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 995)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 908)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 850)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 958)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 884)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1143)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 913)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1015)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1153)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1615)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1163)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1259)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1113)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 976)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 918)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 960)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 803)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1486)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1365)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1330)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1274)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1379)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1333)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1478)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1355)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1207)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1266)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1326)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant