Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Cần Và Muốn

16 Tháng Chín 201510:46(Xem: 10360)
Cần Và Muốn

CẦN VÀ MUỐN

Thiện Ý 

CẦN VÀ MUỐN


Sinh ra và lớn lên trong một gia đình lúc nào cũng đề cao việc thành công trong công việc và thành quả đạt được trong học tập nên tôi lúc nào cũng muốn mình thành công.  Lâu ngày, mình bỗng dưng trở nên ‘ghiền’ sự thành đạt. Ai cũng bảo mình có tài nên phải làm cái này, làm cái nọ.  Vì muốn chìu lòng mọi người nên mình cứ làm theo, cứ nghĩ đó là điều tốt nhất cho mình, chứ không hề nghĩ gì về những nhu cầu thật sự cho mình.

Có những thứ bạn nghĩ mình muốn, nhưng có thể là những thứ bạn không cần. Vì bản chất tham lam nên đôi khi mình thèm muốn rất nhiều thứ mới thỏa mãn được bản ngã của mình.  Nhưng đáng tiếc là mình sẽ không bao giờ được mãn nguyệnbản tính mau chán với những thứ mình đang có, dù là phải tốn rất nhiều công sức và thời gian để có được. 

Như vậy có gì khác biệt giữa cần và muốn.  Cần là một cái gì đó bạn cần phải có, bạn không thể sống thiếu chúng.  Ví dụ như là bạn cần ăn.  Bạn có thể nhịn ăn vài ngày, nhưng cuối cùng, bạn cần phải ăn. Bạn không cần phải có nhiều thực phẩm, nhưng bạn chắc chắn cần phải ăn để sống.  Muốn là một cái gì đó bạn thích có.  Nó không nhất thiếtcần thiết, nhưng có nó thì là một điều hay.  Một ví dụ điển hình như là âm nhạc.  Có người sẽ tranh cãi là âm nhạc rất cần cho sự sống bởi vì họ không thể sống thiếu âm nhạc.  Nhưng chúng ta không cần âm nhạc để sống còn; ngược lại, chúng ta cần ăn. 

Sở dĩ phải dông dài về Cần và Muốn vì chúng ta thường hay lẫn lộn giữa 2 thứ này. Có thứ mình nghĩ mình cần thì hóa ra là thứ mình thích, mình muốn.  Có thứ mình không thích, không muốn nhưng lại cần phải có. Đã bao nhiêu lần chúng ta nghe tiếng trẻ con la khóc trong tiệm bán thức ăn, hay đồ chơi, v.v.. đòi ba mẹ mua cho món hàng mà chúng muốn.  Lúc đó, mình cảm thấy mừng vì đó không phải là con mình.  Mình không phải bị đau đầu về những chuyện đó.  Nhưng thực ra, đôi lúc mình cũng phải dằn lòng, không la khóc như trẻ con, vì có những món đồ mình thích quá mà mình không cần.  Tuy nhiên, bất kể là cần hay không, mình có quyền mua thứ mình thích muốn.  Chúng ta cũng có cái cảm giác thèm khát đến tuyệt vọng phải có món đồ đó trong tay giống như đứa trẻ vậy!
 

Ngoài những thứ cần thiết cho đời sống như, thức ăn, quần áo, thuốc men, nhà ở, tất cả những thứ khác đều là thứ mình muốn chứ không cần.  Đương nhiên mình có thể thích một ngôi nhà đẹp và sang; ăn ngon, mặc đẹp....  Nhưng đó là những thứ mình muốn chứ không phải nhu cầu cần thiết.  Khi chúng ta bắt đầu nhìn kỹ những thứ mình đang có và sẽ có, mà mình cho là cần thiết, chúng ta sẽ thấy có bao nhiêu thứ mình mua chỉ vì mình thích; và rồi bạn mới nhận ra rằng có bao nhiêu thứ mà mình có thể loại bỏ mà vẫn sống an lạc như thường.

 Có những thứ mình không nhất thiết phải có.  Chẳng hạn mình cần một chiếc xe để đi làm, sinh hoạt cho đời sống.  Một chiếc xe tương đối tốt, không bị hư hỏng thường, sạch sẽ một chút.  Nhưng mình không cần phải có một chiếc xe sang trọng, đắt tiền.  Quần áo cũng vậy.  Chúng ta cũng nên có dăm ba bộ đồ coi được để đi ăn nói, tiệc tùng với đời.  Nhưng không cần phải có cả trăm bộ để thay đổi mỗi ngày.  Nếu mình chưa phải là người tu hành, xa lìa thế gian thì muốn một chút ít không có gì là tổn hại cả.  Nhưng nếu thứ mình ưa muốn lại biến thành gánh nặng cho đời sống thì đó là điều mình nên xét lại. 

Nhớ lại, khi mới bắt đầu bước chân đến xứ Mỹ này, ai trong chúng ta hầu như là hoàn toàn tay trắng.  Chúng ta mơ ước có một ngôi nhà tạm dung thân và công ăn việc làm để sinh sống qua ngày.  Nhưng dần dà về lâu, nhu cầu của chúng ta bắt đầu thay đổi một cách đáng kinh ngạc.  Mình giờ đây không thể sống thiếu những thứ như tủ lạnh, truyền hình, phone di động, máy vi tính, v.v..  Thậm chí những thứ lỉnh kỉnh như thức ăn ngon, quần áo sang đẹp, giầy dép thoải mái, trang sức đắt tiền… cũng đều là những nhu cầu mình không thể thiếu trong đời sống.

Chính vì cái danh mục, mà trước đây không có trong nhu cầu cần thiết của mình, nay bỗng dưng không thể thiếu được.  Vợ chồng, con cái lục đục với nhau vì cái danh mục cần thiết này.  Rồi để cung phụng cho cái nhu cầu đó chúng ta làm việc đầu tắt mặt tối, ngày đêm để lo chi trả.  Cho nên việc ngồi xem lại cái danh mục đó để phân tích kỹ xem cái gì thực sự là cần thiết tối thiểu cho mình và cho gia đình, là một việc nên làm.  

Trong kinh Bát Đại Nhân Giác có dạy:

Hai là giác ngộ
Đa dục là khổ
Sinh tử nhọc nhằn
Đều do tham dục
Thiểu dục vô vi
Thân tâm tự tại.  (Sư ông Làng Mai dịch)

Càng lắm ham muốn thì càng nhiều khổ đau.  Định luật này, xưa nay chưa hề sai.  Nhưng hình như tham đắm là nghiệp dĩ của con người! Theo đạo Phật, tham muốn có năm loại:  tiền tài, sắc dục, danh vọng, ăn ngon, ngủ nghỉ.  Ai trong chúng ta cũng đều muốn càng nhiều năm thứ này càng tốt vì chúng ta cho rằng đây là những thứ mang lại hạnh phúcThoạt tiên, khi chưa có gì mình chỉ muốn được một thứ thôi, như tiền tài, là đủ rồi.  Nhưng dần dần, chỉ tiền tài không thôi chưa đủ, chúng ta cần phải có hầu như tất cả năm thứ trên mới hoàn toàn mãn nguyện, hoàn toàn hạnh phúc.   

Cái hạnh phúc ảo tưởng dựa trên vật chất này đã khiến mình lao đao, đau khổ không biết bao nhiêu lần!  Vì sống trong cái thế giới vô thường, luôn luôn biến đổi, ngay cả cái mình rất thích, rất muốn có hôm nay sẽ không còn thích nữa ngày mai.  Tại sao mình muốn phải có cái đó để rồi sau này lại ruồng bỏ vì không còn thích nữa?  Cái hạnh phúc mình mơ tưởng da diết chỉ tồn tại như bong bóng nước, vì còn tùy thuộc vào việc mình có còn thích muốn nó nữa hay không?  Như vậy, hạnh phúc hay không là tùy thuộc nơi tâm mình.  Hễ lòng mình không còn tham muốn nữa thì vật đó sẽ không còn khiến mình đau khổ được nữa.   
        

Thiểu dục, tri túc chính là liều thuốc trị căn bệnh tham dục.  Để hiểu nghĩa của thiểu dục, tri túc chúng ta phải xét kỹ cái gì mình thật sự cần và cái gì mình thực sự muốn.  Sở dĩ mình phải bỏ công suy xét vì những thứ này có ảnh hưởng lớn đến hạnh phúc trong đời sống của mình, và của cả gia đình mình nữa!  Như Phật dạy, ngoài những nhu cầu căn bản cần thiết như thức ăn, nhà ở, quần áo, thuốc men, tất cả mọi thứ khác đều là do tham dục tạo nên.  Người biết đủ sẽ thấy lòng mình mãn nguyện với những thứ mình có và sẽ ít bị quấy nhiễu, khổ đau do tham muốn gây ra.    

 

                                                                      Thiện Ý

                                                                 (tháng 8, 2015)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 595)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 779)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1100)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1268)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 997)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1339)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 789)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 763)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 807)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 823)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 802)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 790)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 947)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 834)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 988)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 1007)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 929)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 931)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 858)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1014)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 954)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 897)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 995)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 910)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 850)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 958)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 884)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1143)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 914)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1016)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1154)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1616)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1164)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1261)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1113)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 977)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 919)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 960)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 804)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1486)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1366)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1330)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1274)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1379)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1334)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1478)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1355)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1208)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1267)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1326)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant