Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thực Hành Hạnh Bố Thí

30 Tháng Mười 201518:07(Xem: 11269)
Thực Hành Hạnh Bố Thí

THỰC HÀNH HẠNH BỐ THÍ

Thích Nữ Tịnh Quang chuyển ngữ

Thực Hành Hạnh Bố Thí

 

Dân gian ta có câu:

“Dầu xây chin bậc Phù đồ
Không bằng làm phúc cứu cho môt người”.

Câu ca dao trên đủ cho chúng ta thấy việc Bố thí quan trọng như thế nào. Hẳn nhiên ai cũng biết rằng việc cứu giúp cho một người đều phát khởi từ bi tâm, và tâm ấy phải là tâm nguyện của một vị Bồ tát, thực thi hạnh Bố thí, giúp đỡ kẻ khác vì thấy rằng mình và người cùng một bản thể, đau khổ của người khác cũng là đau khổ của chính mình.

Bố thí là một pháp tu nền tảng của Đạo Phật. Danh từ Bố thí có nguồn gốc từ Phạn ngữ là Dàna hay Daksinà (Đàn-na). Khởi đầu do Đức Phật khuyên bảo chư Thiện tín nam nữ cúng dường phẩm vật cho chư Tăng tu học và chia sẻ cho những người nghèo khổ. Về sau, pháp Bố thí trở thành một hạnh nguyện đặc trưng của hàng Xuất giaTại gia, thiếu nó, chúng ta không thể đạt được lý tưởng giải thoát, mục tiêu cao cả đối với người học và hành đạo.

Theo Đại Thừa Nghĩa chương 12: Bố là lấy của mình đem cho người khác, thí là đem tâm của mình lo lắng cho mọi người. Như thế đủ hiểu rằng Bô thí ngoài việc cho tài vật cũng phải cho luôn tấm lòng thương yêu của mình với người mới trọn vẹn sự Bố thí. Luận Câu-xá 18 có 7 thứ bố thí: Thí khách nhân, Thí hành nhân, Thí bệnh nhân. Thí thị bệnh giả. Thí viên lâm, Thí thường thực, Thí tùy thời.

Khi Đại thừa phát triển, Bố thí đưuợc nâng lên hàng đầu, là một trong sáu hạnh đầu tiên của pháp Ba-la-mật (Bố thí ba-la-mật, Trì giới ba-la-mật, Nhẫn nhục ba-la-mật, Tinh tấn ba-la-mật, Thiền định ba-la-mật, và Trí tuệ ba-la-mật). Ngoài Tài thí (Bố thí tài vật), được phát triển thêm 2 pháp Bố thíPháp thí (chia sẻ sở học mà mình có được để giúp cho người cùng tu học) và Vô úy thí (giúp người khỏi đau khổ vì những nỗi sợ hãi). Theo Phẩm Thập Vô Tận Tạng của Kinh Hoa Nghiêm thì có 10 Pháp thí: Tu tập thí, tối hậu nan thí, Nội thí, Ngoại thí, Nội ngoại thí, Nhất thiết thí, Quá khứ thí, Hiện tại thí, Vị lai thí, Cứu cánh thí.

Như thế thì Pháp thí vô cùng quan trọng bao gồm cả Nội - Ngoại thí, trong ba thời…và Cứu cánh thí. Vì Pháp bao gồm cả Pháp hữu vivô vi. Trong kinh Kim Quang Minh Tối Thắng vương, quyển ba, Phật dạy: “Này Thiện Nam! Giả sử có người đem bảy báu đầy cả tam thiên đại thiên thế giới cúng dường Như Lai, nếu lại có người khuyến thỉnh Như Lai chuyển Đại Pháp Luân,, thì người này được công đức hơn người kia. Vì sao? – vì người kia dùng tài thí, người này dùng pháp thí. Này Thiện Nam!. Đừng nói chi đem cả bảy báu đầy cả tam thiên đại thiên thế giới bố thí, mà nếu có người đem bảy báu nhiều như hằng hà sa tam thiên đại thiên thế giới cúng dường tất cả chư Phật, thì công đức khuyến thỉnh cũng vẫn hơn cả sự cúng dường ấy, do vì pháp thí có năm điều thù thắng. Những gì là năm? – Một là, pháp thí gồm cả lợi mình, lợi người, còn tài thí không được như thế. Hai là pháp thí hay khiến chúng sanh ra khỏi ba cõi, còn phước tài thí chẳng ra khỏi cõi dục. Ba là pháp thí làm pháp thân thanh tịnh, còn tài thí chỉ tăng trưởng sắc thân. Bốn là, pháp thí thì vô cùng, còn tài thícùng tận. Năm là, pháp thí dứt được vô minh, còn tài thí chỉ khuất phục được tham ái. Thế cho nên, này thiện nam! Công đức khuyến thỉnh vô lượng vô biên, không thể thí dụ”. Giải thích rõ hơn về hành trình của Pháp thí trong kinh Ưu-bà-tắc nói rằng: “Bố thí của hàng Thanh văn, Duyên giác, phàm phu, ngoại đạobố thí của hàng Bồ-tát thực hành trong 2 A-tăng-kỳ-kiếp đều gọi là thí, còn bố thí của hàng Bồ-tát thực hành trong A-tăng-kỳ-kiếp thứ 3 gọi là Thí-ba-la-mật” – Nghĩa là chúng ta phải thực hành hạnh Bố thí trong Đại kiếp thứ ba mới gọi là Thí ba-la-mật, là Bố thí rốt ráo viên mãn. Tại sao phải thực hành tới Đại kiếp thứ 3…? Thực tế thì thực hành Bố thí cũng giống như việc học, không bao giờ bất thối, tâm và hạnh của chúng ta luôn ở trong 3 thời đã-đang-sẽ thì ngay lúc đó chúng ta đã thành tựu hạnh Bố thí. Kinh Tâm Địa Quán nói rằng:

“Năng thí, sở thí cập thí vật
Ư tam giới trung vô sở đắc
Ngã đẳng an trụ tối thắng tâm
Cúng duờng nhất thiết thập phương Phật.”
(Người cho, người nhận và phẩm vật
Ở trong ba cõi không sở đắc
Chúng con an trụ tối thắng tâm
Cúng dường tất cả mười phương Phật).

Câu kệ trên đã hướng hành giả đến điểm rốt ráo, là Bố thí đạt tới trạng thái tâm rỗng rang, không tịch và không có sở đắc sở cầu, đó cũng là ý nghĩa dâng cúng mười phương chư Phật. La Fontaine nói rằng: Con người phải giúp nhau; đó là luật của tự nhiên (People must help one another; it is nature's law). Nhưng đối với công hạnh của Bồ tát thì không những giúp đỡ con người mà còn hoài tưởng đến chúng sanh trong ba cõi. Trong kinh Đại Niết Bàn, phẩm Phạm hạnh thứ 15, Phật dạy: “Này Thiện Nam! Bồ tát lúc thực hành bố thí, đối với chúng sanh khởi lòng thương tưởng như con. Lại nữa, lúc thực hành bố thí, đối với chúng sanh khởi lòng xót xa giống như cha me săn sóc đứa con đang bệnh. Lúc thực hành bố thí, tâm Bồ tát vui mừng như Cha Mẹ thấy con lành bệnh. Sau khi bố thí, tâm Bồ tát buông xả như cha mẹ thấy con đã lớn khôn, có thể sinh sống tự tại.”

Bố thí với tâm thương yêu mọi loài như con mình như thế có cường điệu quá hay không? Khi một hành giả tu tập, có sự quán chiếu sâu sắc sẽ thấy mình và tha nhân và mọi loài cùng là bản thể, nên hàng Bồ tát đau nỗi đau của chúng sinh, vui với niềm vui của chúng sinh như cha mẹ thương con…đó là lẽ tất yếu. Nếu thiếu tâm nguyện này không thể gọi là Bồ tát. Lý tưởng Bố thí cũng đặt nền móng đầu tiên cho việc xây dựng một xã hội lành mạnh, chia sẻ với người nghèo khó để rút ngắn khoảng cách giàu nghèo và sự bất công đang tồn tại trong xã hội, bớt đi tình trạng: “người ăn không hết kẻ lần không ra.” Đâu đó ở trên quả địa cầu này, xung quanh ta cũng còn những người bần cùng đói khát, trẻ em thất học, nghèo bệnh bủa vây, tù nhân bị tra tấn hành hạ, súc sanh bị đâm bị chém….chiến tranh bom đạn không ngừng cũng vì lòng tham lamích kỷ của con người. Thực thi hạnh Bố thí là gieo mầm yêu thương và chia sẻ hạnh phúc, là ước vọng nghìn đời của con người và muôn loài trên trái đất này.

Nhưng nếu những ngưuời nghèo khó làm sao có cơ hôi thực hành hạnh Bố thí?

Kinh Nhân Quả nói: “Này, Thiện nam tử! Dầu cho những kẻ bần cùng trong thiên hạ đi nữa, đâu phải họ không có cái thân, nếu họ không có vật chi bố thí, thì mỗi khi thấy người khác tu bố thí, họ đem thân đến mà hiệp lực giúp đỡ.” Kinh Tăng Nhất A Hàm: “Nếu có người bần cùng, không của bố thí, khi thấy kẻ khác bố thí thì nên khởi tâm tuỳ hỷ (vui vì việc lành của người khác), phước báu tuỳ hỷ ngang với phước báu của kẻ bố thí không khác. Ấy là việc rất dễ làm.” Như thế Bố thí là việc khó nhưng lại là dễ, nhưng làm thế nào cho đúng với tinh thần Bố thí thì đòi hỏi hành giả không thể thiếu “trạch pháp”, không phải bạ đâu cho đó thì việc Bố thí mới không thể trở thành tiếp tay với tội lỗi hoặc trở nên vô nghĩa: Theo Chư Kinh Yếu Tập 10, bố thí có 4 phước báu:

Bố thí nhiều mà phước ít: Bố thí cho người uống ruợu hay nghiện ngập, ca múa cho người xem…thì lãng phí mà chẳng có phước báo (Giúp kẻ phạm tội sẽ chia phần tội lỗi. (He who helps the guilty, shares the crime - Publilius Syrus))

Bố thí ít mà phước báo nhiều: Dâng cúng vật dụng cho người có đạo đức, với lòng từ giúp cho họ tinh tấn học đạo .Phẩm vật tuy ít nhưng phước báo nhiều.

Bố thí ít được phước báo ít: Bố thí cho người ngoại đạo, tà kiến có tâm xan tham xấu ác. Vật thí đã ít, phước báu cũng ít.

Bố thí nhiều được phước báo cũng nhiều: Nếu giác ngộ thế gian này vốn vô thường rồi đem của cải xây dựng Già lam, cúng dường Tam bảo thì được phước báo như cát sông Hằng. Vật thí đã nhiều và có phước báu cũng nhiều.

Bố thí để thanh tịnh viên mãn cũng phải có 5 pháp:

Không lựa người có đức hay không đức

Chẳng nói việc tốt xấu
Chẳng kể dòng họ (thân-sơ)
Chẳng xem thường người xin
Không mắng chửi. (Kinh Ưu-bà-tắc Giớị)

Như thế thì Pháp Bố thí của Đạo Phật cũng là một pháp tu bình đẳng, khiêm cung, nhằm giúp người và mình cùng hoan hỷ, an lạc, đồng thời buông xả bốn tướng ngã, nhơn, chúng sanh, và thọ giả. Và chỉ cần tu hành rốt ráo pháp Bố thí chúng ta có thể nhiếp phục được các căn và tâm phân biệt, chấp thủ. Đó cũng là lý do tại sao Bố thí cũng đứng đầu trong Tứ nhiếp pháp (bố thí nhiêp, ái ngữ nhiếp, lợi hành nhiếp, và đồng sự nhìếp), bốn hạnh lợi mình lợi người trong việc tu đạohành đạo.

 

Theo Kinh Pali, Tương Ưng Bộ, phẩm Devata-samyutta — Devas, đọan Kinh Aditta Sutta (Ngôi Nhà Bốc Cháy) cũng đã nói sự việc cần thiết của việc Bố thí như sau:

Kinh Ngôi Nhà Bốc Cháy*

Tôi nghe như vầy, một  thời Thế Tôn ở gần thành Xá Vệ trong khu vườn Kỳ Đà, tu viện Cấp Cô Độc. Bấy giờ, vào lúc đêm khuya, một Thiên nữ với ánh sáng rạng rỡ vô cùng, chiếu sáng toàn bộ vườn cây Kỳ Đà. Cô ta đi đến chỗ Thế Tôn, và khi đến nơi, cúi chào Ngài, rồi đứng sang một bên. Khi cô ta đứng ở đây, cô ta đọc những câu thơ với sự hiện diện của Đức Thế Tôn:

Khi  ngôi nhà bốc cháy
Của cải được cứu thoát
Là cái sẽ được dùng,
không phải  bị đốt cháy.

Cũng vậy,

Khi thế giới bốc cháy
với tuổi già và chết,
Người ta ta nên cứu hộ [của cải mà họ có]
Bằng cách hiến tặng chúng:
những gì được đem ra
Thì cũng được bảo hộ.
Những gì đã cho rồi
Sinh trái quả an vui.
Những gì mà không cho
Thì không còn gì cả:
Bị kẻ trộm lấy đi
Hoặc vua quan chiếm giữ
Hoặc bị lửa thiêu, mất
Rồi đến lúc cuối cùng
Người ta rời bỏ thân
Với của cải của mình.
Hiểu được điều này rồi
Người thông minh biết cách
Hưởng thụ và Bố thí.
Người vui hưởng và thí
Phù hợp với phương tiện,
Không bị đời chê trách
Thác sinh đến cõi trời

(TN. Tịnh Quang chuyển ngữ)

Bản kinh này đã nhắn nhủ chúng ta rằng, thế giới đang bốc cháy, tất cả chúng ta đang bốc cháy… chúng ta không níu được gì cả, ngay cả cái thân mà chúng ta quí mến; chỉ có tình thươngchúng ta đã ban tặng cho đời thì còn mãi.

Thích nữ Tịnh Quang

Chú thích

*Aditta Sutta: (The House) On Fire

translated from the Pali by

Thanissaro Bhikkhu

© 1997

I have heard that on one occasion the Blessed One was staying near Savatthi in Jeta's Grove, Anathapindika's monastery. Then a certain devata, in the far extreme of the night, her extreme radiance lighting up the entirety of Jeta's Grove, went to the Blessed One and, on arrival, having bowed down to him, stood to one side. As she was standing there, she recited these verses in the Blessed One's presence:

When a house is on fire

the vessel salvaged

is the one that will be of use,

            not the one left there to burn.

So when the world is on fire

with aging and death,

one should salvage [one's wealth] by giving:

            what's given is well salvaged.

What's given bears fruit as pleasure.

What isn't given does not:

            thieves take it away, or kings;

            it gets burnt by fire or lost.

Then in the end

one leaves the body

together with one's possessions.

Knowing this, the intelligent man

enjoys possessions & gives.

Having enjoyed & given

in line with his means,

            uncensured he goes

            to the heavenly state.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 595)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 781)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1103)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1268)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 997)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1341)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 791)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 763)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 808)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 823)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 803)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 790)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 948)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 835)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 988)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 1007)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 930)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 932)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 858)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1015)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 956)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 897)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 995)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 910)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 851)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 958)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 885)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1144)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 916)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1017)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1157)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1617)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1165)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1261)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1113)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 978)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 921)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 960)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 806)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1486)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1366)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1330)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1274)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1381)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1334)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1478)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1355)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1208)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1267)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1326)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant