Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Bài Mới Nhất trang Văn Học
Điền Email để nhận bài mới

Thực Hành Hạnh Bố Thí

30 Tháng Mười 201518:07(Xem: 14016)
Thực Hành Hạnh Bố Thí

THỰC HÀNH HẠNH BỐ THÍ

Thích Nữ Tịnh Quang chuyển ngữ

Thực Hành Hạnh Bố Thí

 

Dân gian ta có câu:

“Dầu xây chin bậc Phù đồ
Không bằng làm phúc cứu cho môt người”.

Câu ca dao trên đủ cho chúng ta thấy việc Bố thí quan trọng như thế nào. Hẳn nhiên ai cũng biết rằng việc cứu giúp cho một người đều phát khởi từ bi tâm, và tâm ấy phải là tâm nguyện của một vị Bồ tát, thực thi hạnh Bố thí, giúp đỡ kẻ khác vì thấy rằng mình và người cùng một bản thể, đau khổ của người khác cũng là đau khổ của chính mình.

Bố thí là một pháp tu nền tảng của Đạo Phật. Danh từ Bố thí có nguồn gốc từ Phạn ngữ là Dàna hay Daksinà (Đàn-na). Khởi đầu do Đức Phật khuyên bảo chư Thiện tín nam nữ cúng dường phẩm vật cho chư Tăng tu học và chia sẻ cho những người nghèo khổ. Về sau, pháp Bố thí trở thành một hạnh nguyện đặc trưng của hàng Xuất giaTại gia, thiếu nó, chúng ta không thể đạt được lý tưởng giải thoát, mục tiêu cao cả đối với người học và hành đạo.

Theo Đại Thừa Nghĩa chương 12: Bố là lấy của mình đem cho người khác, thí là đem tâm của mình lo lắng cho mọi người. Như thế đủ hiểu rằng Bô thí ngoài việc cho tài vật cũng phải cho luôn tấm lòng thương yêu của mình với người mới trọn vẹn sự Bố thí. Luận Câu-xá 18 có 7 thứ bố thí: Thí khách nhân, Thí hành nhân, Thí bệnh nhân. Thí thị bệnh giả. Thí viên lâm, Thí thường thực, Thí tùy thời.

Khi Đại thừa phát triển, Bố thí đưuợc nâng lên hàng đầu, là một trong sáu hạnh đầu tiên của pháp Ba-la-mật (Bố thí ba-la-mật, Trì giới ba-la-mật, Nhẫn nhục ba-la-mật, Tinh tấn ba-la-mật, Thiền định ba-la-mật, và Trí tuệ ba-la-mật). Ngoài Tài thí (Bố thí tài vật), được phát triển thêm 2 pháp Bố thíPháp thí (chia sẻ sở học mà mình có được để giúp cho người cùng tu học) và Vô úy thí (giúp người khỏi đau khổ vì những nỗi sợ hãi). Theo Phẩm Thập Vô Tận Tạng của Kinh Hoa Nghiêm thì có 10 Pháp thí: Tu tập thí, tối hậu nan thí, Nội thí, Ngoại thí, Nội ngoại thí, Nhất thiết thí, Quá khứ thí, Hiện tại thí, Vị lai thí, Cứu cánh thí.

Như thế thì Pháp thí vô cùng quan trọng bao gồm cả Nội - Ngoại thí, trong ba thời…và Cứu cánh thí. Vì Pháp bao gồm cả Pháp hữu vivô vi. Trong kinh Kim Quang Minh Tối Thắng vương, quyển ba, Phật dạy: “Này Thiện Nam! Giả sử có người đem bảy báu đầy cả tam thiên đại thiên thế giới cúng dường Như Lai, nếu lại có người khuyến thỉnh Như Lai chuyển Đại Pháp Luân,, thì người này được công đức hơn người kia. Vì sao? – vì người kia dùng tài thí, người này dùng pháp thí. Này Thiện Nam!. Đừng nói chi đem cả bảy báu đầy cả tam thiên đại thiên thế giới bố thí, mà nếu có người đem bảy báu nhiều như hằng hà sa tam thiên đại thiên thế giới cúng dường tất cả chư Phật, thì công đức khuyến thỉnh cũng vẫn hơn cả sự cúng dường ấy, do vì pháp thí có năm điều thù thắng. Những gì là năm? – Một là, pháp thí gồm cả lợi mình, lợi người, còn tài thí không được như thế. Hai là pháp thí hay khiến chúng sanh ra khỏi ba cõi, còn phước tài thí chẳng ra khỏi cõi dục. Ba là pháp thí làm pháp thân thanh tịnh, còn tài thí chỉ tăng trưởng sắc thân. Bốn là, pháp thí thì vô cùng, còn tài thícùng tận. Năm là, pháp thí dứt được vô minh, còn tài thí chỉ khuất phục được tham ái. Thế cho nên, này thiện nam! Công đức khuyến thỉnh vô lượng vô biên, không thể thí dụ”. Giải thích rõ hơn về hành trình của Pháp thí trong kinh Ưu-bà-tắc nói rằng: “Bố thí của hàng Thanh văn, Duyên giác, phàm phu, ngoại đạobố thí của hàng Bồ-tát thực hành trong 2 A-tăng-kỳ-kiếp đều gọi là thí, còn bố thí của hàng Bồ-tát thực hành trong A-tăng-kỳ-kiếp thứ 3 gọi là Thí-ba-la-mật” – Nghĩa là chúng ta phải thực hành hạnh Bố thí trong Đại kiếp thứ ba mới gọi là Thí ba-la-mật, là Bố thí rốt ráo viên mãn. Tại sao phải thực hành tới Đại kiếp thứ 3…? Thực tế thì thực hành Bố thí cũng giống như việc học, không bao giờ bất thối, tâm và hạnh của chúng ta luôn ở trong 3 thời đã-đang-sẽ thì ngay lúc đó chúng ta đã thành tựu hạnh Bố thí. Kinh Tâm Địa Quán nói rằng:

“Năng thí, sở thí cập thí vật
Ư tam giới trung vô sở đắc
Ngã đẳng an trụ tối thắng tâm
Cúng duờng nhất thiết thập phương Phật.”
(Người cho, người nhận và phẩm vật
Ở trong ba cõi không sở đắc
Chúng con an trụ tối thắng tâm
Cúng dường tất cả mười phương Phật).

Câu kệ trên đã hướng hành giả đến điểm rốt ráo, là Bố thí đạt tới trạng thái tâm rỗng rang, không tịch và không có sở đắc sở cầu, đó cũng là ý nghĩa dâng cúng mười phương chư Phật. La Fontaine nói rằng: Con người phải giúp nhau; đó là luật của tự nhiên (People must help one another; it is nature's law). Nhưng đối với công hạnh của Bồ tát thì không những giúp đỡ con người mà còn hoài tưởng đến chúng sanh trong ba cõi. Trong kinh Đại Niết Bàn, phẩm Phạm hạnh thứ 15, Phật dạy: “Này Thiện Nam! Bồ tát lúc thực hành bố thí, đối với chúng sanh khởi lòng thương tưởng như con. Lại nữa, lúc thực hành bố thí, đối với chúng sanh khởi lòng xót xa giống như cha me săn sóc đứa con đang bệnh. Lúc thực hành bố thí, tâm Bồ tát vui mừng như Cha Mẹ thấy con lành bệnh. Sau khi bố thí, tâm Bồ tát buông xả như cha mẹ thấy con đã lớn khôn, có thể sinh sống tự tại.”

Bố thí với tâm thương yêu mọi loài như con mình như thế có cường điệu quá hay không? Khi một hành giả tu tập, có sự quán chiếu sâu sắc sẽ thấy mình và tha nhân và mọi loài cùng là bản thể, nên hàng Bồ tát đau nỗi đau của chúng sinh, vui với niềm vui của chúng sinh như cha mẹ thương con…đó là lẽ tất yếu. Nếu thiếu tâm nguyện này không thể gọi là Bồ tát. Lý tưởng Bố thí cũng đặt nền móng đầu tiên cho việc xây dựng một xã hội lành mạnh, chia sẻ với người nghèo khó để rút ngắn khoảng cách giàu nghèo và sự bất công đang tồn tại trong xã hội, bớt đi tình trạng: “người ăn không hết kẻ lần không ra.” Đâu đó ở trên quả địa cầu này, xung quanh ta cũng còn những người bần cùng đói khát, trẻ em thất học, nghèo bệnh bủa vây, tù nhân bị tra tấn hành hạ, súc sanh bị đâm bị chém….chiến tranh bom đạn không ngừng cũng vì lòng tham lamích kỷ của con người. Thực thi hạnh Bố thí là gieo mầm yêu thương và chia sẻ hạnh phúc, là ước vọng nghìn đời của con người và muôn loài trên trái đất này.

Nhưng nếu những ngưuời nghèo khó làm sao có cơ hôi thực hành hạnh Bố thí?

Kinh Nhân Quả nói: “Này, Thiện nam tử! Dầu cho những kẻ bần cùng trong thiên hạ đi nữa, đâu phải họ không có cái thân, nếu họ không có vật chi bố thí, thì mỗi khi thấy người khác tu bố thí, họ đem thân đến mà hiệp lực giúp đỡ.” Kinh Tăng Nhất A Hàm: “Nếu có người bần cùng, không của bố thí, khi thấy kẻ khác bố thí thì nên khởi tâm tuỳ hỷ (vui vì việc lành của người khác), phước báu tuỳ hỷ ngang với phước báu của kẻ bố thí không khác. Ấy là việc rất dễ làm.” Như thế Bố thí là việc khó nhưng lại là dễ, nhưng làm thế nào cho đúng với tinh thần Bố thí thì đòi hỏi hành giả không thể thiếu “trạch pháp”, không phải bạ đâu cho đó thì việc Bố thí mới không thể trở thành tiếp tay với tội lỗi hoặc trở nên vô nghĩa: Theo Chư Kinh Yếu Tập 10, bố thí có 4 phước báu:

Bố thí nhiều mà phước ít: Bố thí cho người uống ruợu hay nghiện ngập, ca múa cho người xem…thì lãng phí mà chẳng có phước báo (Giúp kẻ phạm tội sẽ chia phần tội lỗi. (He who helps the guilty, shares the crime - Publilius Syrus))

Bố thí ít mà phước báo nhiều: Dâng cúng vật dụng cho người có đạo đức, với lòng từ giúp cho họ tinh tấn học đạo .Phẩm vật tuy ít nhưng phước báo nhiều.

Bố thí ít được phước báo ít: Bố thí cho người ngoại đạo, tà kiến có tâm xan tham xấu ác. Vật thí đã ít, phước báu cũng ít.

Bố thí nhiều được phước báo cũng nhiều: Nếu giác ngộ thế gian này vốn vô thường rồi đem của cải xây dựng Già lam, cúng dường Tam bảo thì được phước báo như cát sông Hằng. Vật thí đã nhiều và có phước báu cũng nhiều.

Bố thí để thanh tịnh viên mãn cũng phải có 5 pháp:

Không lựa người có đức hay không đức

Chẳng nói việc tốt xấu
Chẳng kể dòng họ (thân-sơ)
Chẳng xem thường người xin
Không mắng chửi. (Kinh Ưu-bà-tắc Giớị)

Như thế thì Pháp Bố thí của Đạo Phật cũng là một pháp tu bình đẳng, khiêm cung, nhằm giúp người và mình cùng hoan hỷ, an lạc, đồng thời buông xả bốn tướng ngã, nhơn, chúng sanh, và thọ giả. Và chỉ cần tu hành rốt ráo pháp Bố thí chúng ta có thể nhiếp phục được các căn và tâm phân biệt, chấp thủ. Đó cũng là lý do tại sao Bố thí cũng đứng đầu trong Tứ nhiếp pháp (bố thí nhiêp, ái ngữ nhiếp, lợi hành nhiếp, và đồng sự nhìếp), bốn hạnh lợi mình lợi người trong việc tu đạohành đạo.

 

Theo Kinh Pali, Tương Ưng Bộ, phẩm Devata-samyutta — Devas, đọan Kinh Aditta Sutta (Ngôi Nhà Bốc Cháy) cũng đã nói sự việc cần thiết của việc Bố thí như sau:

Kinh Ngôi Nhà Bốc Cháy*

Tôi nghe như vầy, một  thời Thế Tôn ở gần thành Xá Vệ trong khu vườn Kỳ Đà, tu viện Cấp Cô Độc. Bấy giờ, vào lúc đêm khuya, một Thiên nữ với ánh sáng rạng rỡ vô cùng, chiếu sáng toàn bộ vườn cây Kỳ Đà. Cô ta đi đến chỗ Thế Tôn, và khi đến nơi, cúi chào Ngài, rồi đứng sang một bên. Khi cô ta đứng ở đây, cô ta đọc những câu thơ với sự hiện diện của Đức Thế Tôn:

Khi  ngôi nhà bốc cháy
Của cải được cứu thoát
Là cái sẽ được dùng,
không phải  bị đốt cháy.

Cũng vậy,

Khi thế giới bốc cháy
với tuổi già và chết,
Người ta ta nên cứu hộ [của cải mà họ có]
Bằng cách hiến tặng chúng:
những gì được đem ra
Thì cũng được bảo hộ.
Những gì đã cho rồi
Sinh trái quả an vui.
Những gì mà không cho
Thì không còn gì cả:
Bị kẻ trộm lấy đi
Hoặc vua quan chiếm giữ
Hoặc bị lửa thiêu, mất
Rồi đến lúc cuối cùng
Người ta rời bỏ thân
Với của cải của mình.
Hiểu được điều này rồi
Người thông minh biết cách
Hưởng thụ và Bố thí.
Người vui hưởng và thí
Phù hợp với phương tiện,
Không bị đời chê trách
Thác sinh đến cõi trời

(TN. Tịnh Quang chuyển ngữ)

Bản kinh này đã nhắn nhủ chúng ta rằng, thế giới đang bốc cháy, tất cả chúng ta đang bốc cháy… chúng ta không níu được gì cả, ngay cả cái thân mà chúng ta quí mến; chỉ có tình thươngchúng ta đã ban tặng cho đời thì còn mãi.

Thích nữ Tịnh Quang

Chú thích

*Aditta Sutta: (The House) On Fire

translated from the Pali by

Thanissaro Bhikkhu

© 1997

I have heard that on one occasion the Blessed One was staying near Savatthi in Jeta's Grove, Anathapindika's monastery. Then a certain devata, in the far extreme of the night, her extreme radiance lighting up the entirety of Jeta's Grove, went to the Blessed One and, on arrival, having bowed down to him, stood to one side. As she was standing there, she recited these verses in the Blessed One's presence:

When a house is on fire

the vessel salvaged

is the one that will be of use,

            not the one left there to burn.

So when the world is on fire

with aging and death,

one should salvage [one's wealth] by giving:

            what's given is well salvaged.

What's given bears fruit as pleasure.

What isn't given does not:

            thieves take it away, or kings;

            it gets burnt by fire or lost.

Then in the end

one leaves the body

together with one's possessions.

Knowing this, the intelligent man

enjoys possessions & gives.

Having enjoyed & given

in line with his means,

            uncensured he goes

            to the heavenly state.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1877)
Kinh Tứ Niệm Xứ dạy hành giả thiết lập Chánh Niệm trên bốn lãnh vực Thân, Thọ, Tâm, Pháp gọi tắt là Niệm Thân, Niệm Thọ, Niệm Tâm, Niệm Pháp.
(Xem: 2059)
Các vị thánh trong Phật giáo thường được mô tảtừ bi như mẹ hiền, với sự kiên nhẫn vô tận của một người mẹ
(Xem: 1810)
Thu thúc lục căn là làm chủ sáu giác quan khi tiếp xúc với sáu đối tượng trần cảnh.
(Xem: 2291)
Bốn câu thi kệ này được trích trong bài « Kinh Hạnh Phúc » mà đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã nói cách đây đã hơn hai ngàn năm trăm năm,
(Xem: 2241)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc.
(Xem: 1985)
Chúng ta ở đây; chúng ta tồn tạichúng taquyền hiện hữu. Ngay cả những sinh vật không có tri giác như hoa cũng có quyền tồn tại.
(Xem: 2400)
Đức Phật xuất hiệnhành đạo nơi xứ Ấn cách nay hơn 26 thế kỷ với hiện thân con người, bậc Giác ngộ trong thế gian.
(Xem: 1867)
Phá kiến là một thuật ngữ trong Phật giáo dùng để chỉ cho việc có quan điểm, giải thích, hướng dẫn sai lạc ý nghĩa chân chính của Phật pháp.
(Xem: 2055)
“Dòng sông ơi! Vẫn thơ mộng như ngày xưa! Tình người ơi! Vẫn đẹp cho đến bao giờ…?”
(Xem: 2246)
Nói sơ tâm, là nói về tâm của người mới học, tâm đơn sơ, tâm như hài nhi trẻ nhỏ, tâm rất mực hồn nhiên, chưa có chút gì là chữ nghĩa dày đặc, không chút gì là kiến thức uyên bác.
(Xem: 2098)
Cái đẹp luôn là đề tài thơ mộng cho con người ta bay bổng, mộng mơ và tương tư không dứt, nó là một phần ý vị của cuộc sống.
(Xem: 2201)
Người tu học Phật đều biết rằng, Bát Chánh đạolà nền tảng quan trọng của toàn bộ giáo pháp Thế Tôn.
(Xem: 1892)
Chúng ta không thể nào trường sanh bất tử, trẻ đẹp, và mạnh khỏe mãi mãi được trên đời.
(Xem: 2213)
Tu hành là gì? Có phải nhất định cần thoát ly cuộc sống, chạy vào trong chùa niệm kinh lạy Phật...
(Xem: 2841)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 2096)
Để đoạn tận tất cả tà kiến thì phải trau dồi chánh kiến. Chánh kiến ở đây là cái gì?
(Xem: 2683)
Thế gian không có cái gì khổ cả, khổ chỉ là những ảo giác của con người.
(Xem: 2256)
Đúng thế, đời là vô thường, huyễn mộng ai ai cũng biết. Nhưng chúng ta không thể nào ngồi im mà thụ động tại chỗ.
(Xem: 2342)
Đức Phật đã dạy các nhà sư nên đi lang thang thế nào? Các bản tiếng Anh thường dùng chữ “wander” để nói về hành vi lang thang.
(Xem: 1899)
Phàm có sinh thì có tử, đó là lẽ thường trong cuộc đời. Vạn sự vạn vật đều vận hành theo quy luật sinh ra, tồn tại, thay đổi, hoại diệt (gọi là sinh, trụ, dị, diệt)
(Xem: 1905)
Pháp thoại này Thế Tôn dạy Tôn giả La-vân (La-hầu-la) quán chiếu về thân nghiệp giống như đang soi gương thấy rõ mặt mình dơ hay sạch.
(Xem: 2304)
Cứ mỗi độ Vu Lan lại về với chúng ta, chính lúc đó là mùa Báo Hiếu, không biết bao nhiêu người con, từ khắp bốn phương nhớ tưởng đến công lao sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ…!
(Xem: 2153)
Thỉnh thoảng chúng ta nghe rằng bạn này tu theo Thiền Chỉ, và rồi nghe rằng bạn kia tu theo Thiền Quán.
(Xem: 2392)
Bài pháp thoại này được nói tại một ngày tu Chánh niệmTu viện Tisarana, vào tháng Ba năm 2008.
(Xem: 2362)
Bài viết này được chuyển thể từ một bài báo xuất bản đầu tiên trên Tina Lear's Medium.
(Xem: 2109)
Hình như bất cứ lãnh vực nào, bước vào chuyên sâu, đều luôn có những chướng ngại, hoặc chướng duyên;nhất là hành giả trên con đường tâm linh giải thoát.
(Xem: 2206)
Về câu hỏi, thế nào là thời mạt Pháp? Tôi được nghe câu trả lời của Đức Đạt Lai Lạt Ma trong buổi nói chuyện tại chùa Viên Giác
(Xem: 2419)
Phàm phu thì sống trong thức phân biệt, nên thấy có sanh tử và không ra khỏi. Trái lại, bậc thánh thì sống trong trí và do đó thoát khỏi sanh tử:
(Xem: 2219)
Phàm là người xuất gia ở chốn Tòng Lâm, tự viện, phải sống đời phạm hạnh, nghiêm trì giới luật đã thọ, giữ gìn oai nghi tế hạnhtrang nghiêm tự thân, kính trên nhường dưới, từ ái với mọi người.
(Xem: 1702)
Bất cứ trong một tổ chức nào, từ chính trị đến xã hội, từ Tôn giáo đến đoàn thể…đều cần có một lý thuyết nền tảng vững chắc để làm cơ sở triển khai mọi sinh hoạt.
(Xem: 2157)
Mỗi ngày trong cơ thể ta đều có những tế bào cũ chết đi và những tế bào mới sinh ra nhưng có bao giờ chúng làm đám tang hay tổ chức sinh nhật cho chúng đâu
(Xem: 2473)
Chúng ta thường nghe nói rằng Thiền Tổ Sư là dạy pháp vô niệm, vô tâm.
(Xem: 2403)
Như lý tác ý là khởi nghĩ, hướng tâm về mọi sự vật và hiện tượng đúng như lời dạy của Đức Phật.
(Xem: 2300)
Một thời Đức Phật trú tại nước Xá-vệ, ở trong Thắng Lâm, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ Thế Tônnói với các Tỳ-kheo:
(Xem: 2229)
Thân là thân thể của con người. Niệm là ghi nhận, quan sát. Xứ là lĩnh vực, là đề mục để hành giả quan sát tu tập.
(Xem: 2597)
“Chiếc áo không làm nên nhà sư”, nghĩa bóng của nó như một lời nhắc nhở mọi người, đừng vội đánh giá người khác qua hình thức bên ngoài.
(Xem: 2400)
Có phải bây giờ đã tới thời mạt pháp? Hay là sắp tới thời mạt pháp?
(Xem: 1945)
Tánh Không được đồng hóa với như mộng. Đây là điều hệ thống Kinh Đại Bát Nhã thường nói.
(Xem: 2361)
Toàn thể thế giới chúng ta, bên ngoài là thế gian, bên trong là tâm. Tất cả chúng là một biển vô tận của các pháp hữu vi đang vận hành.
(Xem: 1841)
Việc tu tậpthiền viện nhấn mạnh vào việc hoàn thành mọi công tác tốt đẹp. Là tu sĩ, chúng tôi đặt nặng giá trị của việc chánh niệm về những điều bình thường
(Xem: 1769)
Danh vọng nương nơi cái tôi mà tồn tại. Không có cái tôi, danh vọng không hiện hữu.
(Xem: 2499)
Đã tử lâu lắm rồi, người Phật tử đã nghe nói về thời mạt pháp.
(Xem: 2251)
Gần đây chúng ta thấy xuất hiện trên mạng xã hội nhiều bài viết kêu gọi người Phật tử phải cảnh giác với việc “trộm tăng tướng” hay “tặc trụ”.
(Xem: 1936)
Trong nhiều bài pháp tôi đã viết, thì thường đề cập đến vấn đề làm phước, tích phước, tích đức, hay tu thiện... V
(Xem: 2702)
Bố thícúng dường là một trong những hạnh đầu tiên để làm cho cõi này tốt đẹp hơn, và là những bước đi đầu tiên của Phật tử trên đường giải thoát.
(Xem: 1860)
Thuyết âm mưu không phải là vấn đề mới, nó vốn xảy ra từ xa xưa, bên Đông hay bên Tây đều có cả.
(Xem: 2675)
Sự xuất hiện của hành giả Thích Minh Tuệ đã tạo ra một biến động chưa từng có trong lịch sử Phật Giáo Việt Nam.
(Xem: 2554)
Bệnh đau là chuyện tất yếu của con người. Trừ những người có phước đức về sức khỏe sâu dày, còn lại hầu hết đều trải qua bệnh tật.
(Xem: 2635)
Thời thơ ấu, chúng ta ưa thích đọc truyện Cô Ba Cháo Gà Địa Ngục Du Ký, rồi ưa nghe kể chuyện vong nhập, chuyện trừ tà…
(Xem: 5467)
Con đi Tu là để cầu giải thoát, hàng ngày con chỉ xin ăn một bữa, con không nhận tiền của ai.
Quảng Cáo Bảo Trợ
free website cloud based tv menu online azimenu
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant