Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tinh Thần Bồ Tát Nhập Thế Của Tuệ Trung Thượng Sĩ

31 Tháng Bảy 202318:37(Xem: 1537)
Tinh Thần Bồ Tát Nhập Thế Của Tuệ Trung Thượng Sĩ
Tinh Thần Bồ Tát Nhập Thế Của Tuệ Trung Thượng Sĩ  

Thích Nữ Tâm Vương *


chu tieu 2


Tóm tắt: Tuệ Trung Thượng Sĩ là một trong những nhà thiền học thông tuệ bậc nhất của Phật giáo thời Trần. Ông không chỉ là một thiền gia đạt ngộ sâu sắc, mà còn là một nhà thơ, nhà tư tưởng, nhà quân sự mưu lược. Nếu như vua Trần Thái Tông được ví như người châm bó đuốc đầu tiên cho thiền học thời Trần, thì Tuệ Trung Thượng Sĩ chính là người thổi bùng lên ngọn đuốc thiền ấy, để ánh sáng thiền chiếu tỏ dân tộc Đại Việt. Tư tưởng “vạn pháp chi tâm tức Phật tâm” và “hòa quang đồng trần” của ngài chính là biểu hiện của tinh thần Bồ tát sẵn sàng dấn thân vào đời. Tinh thần ấy đã thấm nhuần vô dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử, được ba vị Tổ Trúc Lâm: Sơ Tổ Trần Nhân Tông, nhị Tổ Pháp Loa, tam Tổ Huyền Quang kế thừa và phát huy xuất sắc. Đến nay, âm vang của tinh thần đó vẫn được Giáo hội Phật giáo Việt Nam tiếp nốitrở thành phương châm hoạt động: “Phật giáo Việt Nam đồng hành cùng dân tộc”. Đây chính là tinh thần nhập thế của các vị Bồ tát, đưa đạo vào đời, mang ánh sáng giác ngộ và lòng đại bi soi tỏ thế gian, giúp người mê tìm về bến giác.

SƠ LƯỢC TIỂU SỬ TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ

Tuệ Trung Thượng Sĩ (1230-1291) tên thật là Trần Tung, con trưởng của An Sinh Vương Trần Liễu, anh ruột của Hoàng hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm. Ông người Tức Mặc, phủ Thiên Trường, nay thuộc tỉnh Nam Định. Sau khi An Sinh Vương mất, ông được vua Trần Thái Tông phong hiệu là Hưng Ninh Vương.

Theo nhận xét của vua Trần Nhân Tông, Tuệ Trung là một người có khí lượng thâm trầm, phong trần nhàn nhã, từ nhỏ đã có phẩm chất cao sáng, thuần hậu, sớm yêu mến cửa không. Ngài đến tham vấn với thiền sư Tiêu Daotịnh xá Phước Đường và thờ thiền sư làm thầy.

Trần Tung hai lần có công chỉ huy đánh bại quân Nguyên xâm lược (1285 và 1288). Sau khi thắng trận, ông được thăng giữ chức Tiết độ sứ trấn giữ hải đạo Thái Bình. Không lâu sau, ông lui về ẩn tại ấp Tịnh Bang (Hải Phòng) đổi tên là làng Vạn Niên, lấy hiệu Tuệ Trung, lập Dưỡng Chân trang để tọa thiềntu tập. Hàng ngày, “thượng sĩ lấy thiền duyệt làm vui, không lấy công danh làm sở thích. Hòa ánh sáng lẫn với thế tục, ngài cùng mọi người chưa từng chống trái, nên hay làm hưng thịnh hạt giống chánh pháp, dạy dỗ hàng sơ cơ, người đến hỏi han, ngài đều chỉ dạy cương yếu, khiến họ trụ tâm, tánh tùy phương tiện khi hiện, khi ẩn, trọn không có tên thật”.

TINH THẦN BỒ TÁT NHẬP THẾ CỦA THƯỢNG SĨ:

Bồ tát (Pàli: Bodhisatta- Sanskrit: Bodhisattva) nghĩa là một hữu tình giác ngộ hoặc người có năng lực đạt đến giác ngộ. Danh từ Bồ tát đã được sử dụng từ thời Phật còn tại thế, chỉ cho những tiền kiếp tích lũy công đức tu tập của Đức Phật trước khi Ngài chứng được quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Mãi đến khi Phật giáo Đại thừa ra đời, tinh thần Bồ tát đạo mới thực sự phát triển và xiển dương mạnh mẽ. Quan niệm về Bồ tát của Phật giáo Đại thừa không dừng lại ở hình ảnh một người phát tâm làm lợi ích để thực hành quả vị giác ngộ (tự độ), mà còn chỉ những vị phát đại nguyện dấn thân vào cõi uế trược để cứu độ chúng sinh, khiến họ cũng được giác ngộ thành Phật (độ tha). Tiêu biểu như Bồ tát Quán Thế Âm: Theo kinh Đại Bi tâm Đà La Ni, ngài vốn đã là một vị cổ Phật, nhưng vì hạnh nguyện Đại Bihiện thân Bồ tátcõi Ta Bà; hay Bồ tát Địa Tạng Vương với lời đại nguyện: “Địa ngục vị không, thệ bất thành Phật. Chúng sinh độ tận, phương chứng Bồ-đề” (Địa ngục chưa trống không, tôi thề chưa thành Phật. Chúng sinh được độ hết mới chứng quả Bồ-đề). Chính chủ trương bình đẳng giai cấp và khẳng định sự bình đẳng trong năng lực giác ngộ của mỗi chúng sinh: “Tất cả chúng sinh đều có Phật tính”, cùng tinh thần cứu khổ ban vui không phân biệt của Bồ tát đã giúp Phật giáo Đại thừa nhanh chóng du nhập vào nhiều quốc gia, được quần chúng nhân dân hết lòng tin nhận. Và ở nước ta cũng không ngoại lệ, đặc biệt trong giai đoạn Phật giáo Lý – Trần, tinh thần Bồ tát nhập thế đã được đẩy lên trở thành tư tưởng nòng cốt của quốc gia.

Nhắc đến Tuệ Trung Thượng Sĩ, người ta thường ca ngợi ông với hình ảnh một triết gia lỗi lạc, một thiền sư tiêu sái, một nhà thơ, nhà quân sự tài ba. Nhưng thật thiếu sót nếu như không đề cập đến hình ảnh Bồ tát nhập thế của ông. Tất cả những phẩm chất vô ngã, vị tha, dũng cảm (Bi-Trí-Dũng) của Tuệ Trung đều là biểu hiện của một vị đại Bồ tát dấn thân vào đời, đem ánh sáng hòa vào thế tục, như lời bạt mà Trần Khắc Chung đã viết: “Thượng sĩ làm Bồ tát tại gia, chấn hưng gia phong của Phật, đề khởi câu nói, dẫn dắt người hậu học được ánh sáng siêu việt, Phật Hoàng thật được thành tựu chỗ này”. 

Đại Bi 

Phẩm chất Đại Bi tượng trưng cho tình thươnghạnh nguyện rộng lớn của một vị Bồ tát, nó là tư lương để Bồ tát bắt đầu bước trên con đường hóa độ chúng sinh. Trong bài Vào cát bụi Thượng sĩ đã nói lên tình thươnghạnh nguyện rộng lớn của Ngài đối với chúng sinh:

“Xăm xăm cất bước vào bụi đời  
Vàng óng đầu mi, mở khơi khơi.    
Xóm bắc rong chơi vào bụng ngựa  
Nhà đông cười nói nhập thai lừa.  
Roi vàng đánh đuổi trâu đất chạy  
Dây sắt lôi đầu cọp đá về.  
Rồi một ngày mai băng giá hết  
Trăm hoa như cũ rộn xuân đài.”
(HT. Thích Thanh Từ dịch)

“Xăm xăm cất bước vào bụi đời; Vàng óng đầu mi, mở khơi khơi” – hai chữ “xăm xăm” đã thể hiện tinh thần xông qua, không ngại ngùng, không e sợ, dám bước thẳng một mạch vào cõi đời bụi bặm của Thượng sĩ. Không những vậy, ông bước vào đời bằng phong thái sáng ngời, không hề lấm lem bụi trần. Đây là tinh thần một vị Bồ tát đến với đời vì hạnh nguyện mà không sợ hãi, cũng không bị nghiệp lực dẫn lối, không bị uế trược ô nhiễm, đầy đủ phong thái và tự tại

hạnh nguyện của Tuệ Trung Thượng Sĩ chính là: “Xóm bắc rong chơi vào bụng ngựa; Nhà đông cười nói nhập thai lừa; Roi vàng đánh đuổi trâu đất chạy; Dây sắt lôi đầu cọp đá về”. Đối với các bậc Bồ tát, ở đâu còn chúng sinh khổ đau thì các Ngài sẽ có mặt tại đó, dù cho đó là việc tái sinh vào bụng ngựa, thai lừa. Việc ra vào trong ba cõi nhẹ nhàng như đi chơi, chỉ là vui đùa, không có gì đáng sợ. Bởi các ngài vào cõi trần bằng hạnh nguyện, bằng trí tuệ nên thấy nhẹ nhàng, còn chúng ta vì nghiệp lôi dẫn nên mới sinh tử luân hồi, bị trói buộc, không được tự tại

“Roi vàng đánh đuổi trâu đất chạy; Dây sắt lôi đầu cọp đá về”. Vì Bồ tát đã chứng được thực tướng, luôn luôn sống được với thể tính chân thật, từ ngay nơi bản thể ấy mà tùy duyên, tùy cảnh ứng ra diệu dụng, biểu hiện thành mọi hình tướng không thể nghĩ bàn. Đối với “trâu đất” thì dùng roi vàng đánh đuổi, đối với “cọp đá” cần dây sắt lôi đầu. Tùy cơ mà phát dụng, hiển tướng khiến cho chúng sinh được lợi ích lớn.

Bồ tát ra vào cõi sinh tử như trở bàn tay, với đại diệu dụng tùy căn cơhóa độ chúng sinh, có thể thấy công hạnh vô cùng lớn lao. Nhưng đối với Thượng sĩ một khi Bồ tát đã hoàn tất hạnh nguyện, làm xong tất cả lợi ích cho chúng sinh mà nhìn lại không thấy bản thân đã từng làm gì đó chính là phút giây viên mãn nhất:

“Rồi một ngày mai băng giá hết  
Trăm hoa như cũ rộn xuân đài”.

Cả bài thơ đã thể hiện trọn vẹn hình ảnh của một vị Đại Bồ tát: Thượng sĩ bước vào cuộc đời đầy bụi bặm với lòng đại bihạnh nguyện rộng lớn. Siêu vượt mọi hình tướng mang ánh sáng giác ngộ soi tỏ cho thế gian (hòa quang đồng trần).

Trí tuệ

Trên con đường hoằng pháp độ sinh, một vị Bồ tát nếu chỉ có lòng đại bi và thiếu đi trí tuệ thì việc độ sinh chẳng những khó thành tựu mà việc tự độ của bản thân cũng dễ bị lui sụt. Bởi nếu không có một cái nhìn trí tuệ, thấu suốt về ngã và pháp thì việc tu học, độ sinh sẽ vô cùng chướng ngại, Bồ tát rất dễ vướng vào danh, lợi, bỉ thử. Và khi đó, việc độ sinh có thể trở thành công cụ cho danh tiếng, tiền tài, đi ngược với tinh thần giải thoát của đạo Phật.

Đối với Tuệ Trung Thượng Sĩ, ngài đã thể hiện tinh thần vô ngã, vô phân biệt khi nhận định rằng: Tâm của vạn pháp (tâm của mọi chúng sinh) đồng với tâm Phật và tâm của chính mình:

“Tâm của vạn pháp là tâm của Phật.
Tâm Phật cũng phù hợp với Tâm ta,
Pháp là như thế đấy suốt xưa nay”.
(Phật tâm ca – HT. Thích Thanh Từ dịch)

Nếu không phải một bậc giác ngộ sâu sắc thì khó có được cái nhìn dung thông, thấu triệt như vậy. “Tâm của vạn pháp là tâm của Phật” đây chính là cái nhìn từ trí tuệ Bát-nhã siêu việt, tương ưng với câu nói trong Kinh Kim Cương: “Nhất thiết pháp giai thị Phật pháp”. Ở đây, Thượng sĩ dùng chữ “tâm của vạn pháp” nhằm nhấn mạnh yếu tố “ngã không”, tức là không có một chúng sinh nào tồn tại độc lập, có ngã riêng, mà tất cả đều tương tức, tác động qua lại lẫn nhau. Hay sâu sa hơn, chữ “tâm” mà Tuệ Trung dùng nhằm nói tới Phật tính bản hữu nơi mỗi người. Vì ai cũng sẵn có Phật tính đó nên “tâm” của chúng sinh cùng “tâm” của Phật không khác biệt. 

Có thể thấy, trong quan niệm vô ngã của Tuệ Trung, tuy ngôn từ diễn đạt có khác nhưng về nghĩa lý hoàn toàn khế hợp với tinh thần độ sinh của Bồ tátĐức Phật đã thuyết trong Kinh Kim Cương: “Này thầy Tu Bồ Đề, nếu một vị Bồ tát mà còn vướng mắc vào các khái niệm về Ngã, Nhân, Chúng SanhThọ Giả thì vị ấy chưa phải là vị Bồ tát chân thật”.

Dũng

Trong các cuộc kháng chiến chống quân Mông-Nguyên xâm lược, Trần Tung đã sát cánh cùng các triều đình và quân dân nhà Trần kháng chiến, bảo vệ đất nước. Nơi Thượng sĩ không chỉ có sự dũng mãnh, mưu lược của một vị tướng mà còn chứa đựng sức oai hùng của bậc đại sĩ. Đối với chúng sinh, đối diện với sống chết là điều đáng sợ nhất, nhưng theo Thượng sĩ việc “sống chết nhàn mà thôi”: 

“Sanh tử xưa nay tự tánh không
Thân huyễn hóa này rồi sẽ diệt

Kẻ ngu điên đảo sợ sống chết
Người trí thấy suốt nhàn thôi vậy”.

Có được cái thấy nhàn trước sống chết như Thượng sĩ chỉ có thể là các bậc Bồ tát đại dũng lực. Trong Phật giáo, đại diện cho sự dũng mãnh của một vị Bồ táttinh thần “vô úy”. “Vô úy” là tinh thần không sợ hãi trước bất kì hoàn cảnh hay bất kì một đối tượng nào. Đối với Tuệ Trung Thượng Sĩ, tinh thần “vô úy” dũng mãnh ấy không chỉ biểu hiện ở những tuyên ngôn của ngài, mà được chính ngài chứng thực ngay phút giây cận kề sinh tử: “Thượng sĩ nằm trên một chiếc giường gỗ giữa nhà trống theo thế kiết tường nhắm mắt mà tịch. Các người hầu và thê thiếp trong nhà khóc rống lên, Thượng sĩ mở mắt ngồi dậy lấy nước súc miệng rửa tay, rồi quở nhẹ: “Sống chết là lẽ thường, đâu nên buồn thảm luyến tiếc, làm nhiễu động chân tánh ta”. Nói xong, ngài an nhiên thị tịch”.

Hình ảnh ra đi của Thượng sĩ thật nhẹ nhàng và tự tại nhưng nó là cả một nội lực phi thường vượt lên trên sự giày vò của tứ đại tan giã cũng như guồng quay nơi tâm thức. Sức mạnh này chỉ có ở các bậc đại sĩ mà thôi. Và năm vị vua đời Trần cũng đã có được sự “vô úy” trước sinh tử như vậy. Trước Thượng sĩ là vua Trần Thái Tông và Trần Thánh Tông, tiếp sau ngài là vua Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông và Trần Minh Tông. Tất cả các vị đều ra đi trong sự bình thản, đầy tự chủ. Tư tưởng này đã ảnh hưởng sâu sắc đến tâm thức con dân nhà Trần nói riêng và thấm nhuần nơi mỗi con người Việt Nam nói chung, tạo nên một Đại Việt với tinh thần bất khuất, quật cường, không sợ sống chết. Điều ấy đã tạo nên sức mạnh tập thể, là một trong những nguyên nhân để đất nước Đại Việt bé nhỏ chiến thắng được bao cuộc chiến tranh, xâm lược của các đế quốc hùng mạnh.

KẾT LUẬN

Có thể nói, Thượng sĩ đã sống trọn vẹn cả đời và đạo. Với đời, ngài đã cống hiến trọn tâm và sức để phò tá vua, đồng hành cùng quân dân đánh giặc, bảo vệ bờ cõi, bảo vệ sự bình yên cho đất nước. Với đạo, Thượng sĩ không những tự mình tu tập giác ngộ, mà chẳng quản ngại dẫn dắt hàng sơ cơ, không phân biệt Tăng tục, tùy phương tiện đưa họ vào đạo. Xin được trích dẫn một đoạn đối đáp của Tuệ Trung Thượng Sĩ cùng học trò để làm rõ điều này: 

“Hỏi:

– Thế nào là gia phong của Thượng Sĩ? 

Thượng sĩ đáp:

Nhàn ném trái rừng kêu vượn tiếp 

Lười câu cá suối khiến hạc tranh”.

Hỏi về “gia phong” có nghĩa là hỏi về nếp sống của Thượng sĩ. Câu trả lời của Thượng sĩ nghĩa cơ bản có thể hiểu lúc rảnh rỗi thì ném trái rừng gọi vượn đến ăn, khi lười thì đến suối câu cá, cá câu được đều cho hạc hết. Ý nghĩa thực mà Thượng sĩ muốn nói tới là tất cả những gì ngài có được đều trao hết cho chúng sinh chẳng mảy may giữ lại bên mình. Thượng sĩ làm tất cả việc cho chúng sinh nhưng tâm vẫn luôn “nhàn”, không hề bị rối bận, luôn tự tại đây chính là gia phong của ngài. 

Có thể thấy, Tuệ Trung Thượng Sĩ đã hấp thụ trọn vẹn tư tưởng Bồ tát của Đại thừa, ngài sẵn sàng hòa vào trong cuộc đời thế tục để hướng dẫn, chỉ dạy cho chúng sinh với một phong thái đầy tự tại, tiêu sái, không chút e dè, sợ hãi. Ngài chính là một bậc đại sĩ nhập thế đầy đủ Bi – Trí – Dũng, là tấm gương tiêu biểu đưa đạo vào đời, để từ đó tư tưởng của ngài đã được lan tỏa, thấm nhuần trong tinh thần của Phật giáo Việt Nam nói riêng và toàn thể dân tộc Việt Nam nói chung.

 

Chú thích

* SC. Thích Nữ Tâm Vương, Nghiên cứu sinh Viện Trần Nhân Tông, Đại học Quốc gia Hà Nội. 

 

Tài liệu tham khảo

1. HT. Thích Thanh Từ (1997), Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục giảng giải, Thiền viện Thường Chiếu.
2. Thích Nhất Hạnh, Kim Cương gươm báu cắt đứt phiền não, Nxb. Thời Đại.
3. Cao Huy Chú – Đào Duy Anh (2021), Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb. Hồng Đức.
4. Viện Văn Học (1977-1989), Thơ văn Lý – Trần, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
5. Lê Mạnh Thát, Toàn tập Trần Nhân Tông, Nxb. Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1697)
Phật giáo trước hết là một tôn giáo, vì thế những tư tưởng của giáo lý Phật giáo không đề cập nhiều tới những vấn đề triết học...
(Xem: 2422)
“… Đêm qua trăng mọc trên đồi, thấy tâm tịch lặng không người, không ta, ai hỏi thì nhấc cành hoa, thấy gì, được thấy, đều xa muôn trùng …”
(Xem: 1855)
Tôi thường thắc mắc tại sao mình dự tính làm điều này thì có khi lại đổi sang làm chuyện khác mà mình không hề suy tính được.
(Xem: 1928)
Sống trong đời này, chúng ta thường hay nghe những ngôn từ bình dị, than thở rằng: “Trần ai - trong cõi tạm, là gì - ra sao?”
(Xem: 1796)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2172)
Khi mới vào đạo, điều đầu tiên chúng ta được dạy là không nhìn lỗi của người khác.
(Xem: 2149)
Sống ở đời ai cũng mong cầu được hạnh phúc. Hạnh phúc là gì?
(Xem: 2292)
Ở đời bất cứ sự kiện nào xảy ra cũng có nguyên do của nó. Như bài kinh “Bát Đại Nhân Giác” xuất hiện trên thế gian này cũng không ngoại lệ.
(Xem: 1787)
Hai chữ vô thường rất quen thuộc với mọi người chúng ta, trong đời sống hàng ngày ai ai cũng nghe và nói.
(Xem: 2091)
Tư tưởng nhân quả Phật giáotư tưởng nổi bật trong nhân sinh quan Phật giáo.
(Xem: 1801)
Chúng ta đang chứng kiến những bất ổn xã hội hay thiên tai trên toàn thế giới, Việt Nam không phải là ngoại lệ khi gần đây
(Xem: 1784)
Sống phải có niềm tin, nhưng đừng tin quá vào một người, dù người đó là ai, có địa vị như thế nào trong xã hội.
(Xem: 1960)
Đức Phật đã dạy cho hàng đệ tử về mối tương quan và lợi ích của việc thực hành bốn nhiếp pháp trong Kinh Tăng Chi Bộ,
(Xem: 1954)
Đức Phật Thích Ca Như Lai của chúng ta, lúc mới phát tâm, đã vì ta mà tu Bồ tát đạo, trải qua vô lượng kiếp chịu đủ các thứ khổ cực.
(Xem: 1607)
“Không làm các việc ác Siêng làm các việc lành Thanh tịnh hoá tâm ý…”
(Xem: 1792)
Việc khấn nguyện, cầu nguyện là một vấn đề tâm linh rất phổ biến của tín đồ mọi tôn giáo và không cứ gì mùa xuân mà việc khấn nguyện...
(Xem: 2124)
Hồi sáng, lúc đi thiền hành ở Xóm Thượng, tôi đi xuôi xuống chùa Sơn Hạ. Mỗi bước chân giúp tôi tiếp xúc với sự sống rất sâu sắc
(Xem: 1874)
Chế độ ăn kiêng của bạn có thể giúp dự đoán bạn sống được bao lâu.
(Xem: 2471)
Đức Phật dạy “Thân người khó được, Phật pháp khó nghe”. Biết điều này, khi được là con Phật, ta sẽ thấy mình thật hạnh phúc vì ...
(Xem: 1775)
Không ít Phật tử đến chùa quy y, học Phật pháp, công quả, tham gia các hoạt động Phật sự, thường theo cảm tình đối với người Thầy ở nơi mình đến hơn là...
(Xem: 1778)
Giữ năm giới là khó, giữ gìn một cách hoàn hảo càng khó hơn. Muốn giữ giới hoàn hảo, trước phải học và thông hiểu về mỗi giới
(Xem: 1745)
Đóng cửa các nẻo đường xấu ác để chúng sanh không bị sa rớt xuống các nẻo địa ngục, quỷ đói, súc sanh.
(Xem: 2196)
“Chớ bảo xuân tàn, hoa rụng hết. Đêm qua sân trước một cành mai”
(Xem: 2013)
Người ta nói uống trà là thú vui tao nhã, thanh cao. Thú vui cuộc đời nói chung có hai loại là thanh cao và không thanh cao.
(Xem: 2159)
Mỗi khi mùa xuân mới về là trời đất lại thanh tân, vạn vật muôn loài thay áo mới nhưng lòng người thì vẫn cũ, vẫn chẳng đổi thay,
(Xem: 1695)
Nếu mùa xuân là cái gì tươi đẹp nhất thì đó phải là vẻ đẹp từ sự biết ơn trong tâm hồn của mỗi người.
(Xem: 2313)
Mùa xuân hải ngoại trời lạnh lắm nhưng lòng người ấm áp vì nhớ về những mùa xuân dân tộc.
(Xem: 1637)
Không biết từ khi nào, có lẽ từ lâu lắm rồi, trà là một trong những thứ không thể thiếu trong các gia đình của người phương Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng.
(Xem: 1928)
Mùa xuân là mùa khởi đầu năm mới. Năm mới thường mở đầu bằng một mùa xuân mơ ước đầy khát vọng, hoài bão.
(Xem: 1832)
Bóng chiều ngã dài, trên sườn đồi, vài sợi mây xanh vươn vấn, tiếc nuối dư hương nhạt nhòa, chạnh lòng băng giá khách tha phương tìm về cố quốc
(Xem: 1878)
Đạo đức học Phật giáo là một hệ giá trị bền vững cùng năm tháng, xuất phát từ tuệ nhãn của bậc Thiện Thệ hơn hai nghìn sáu trăm năm trước.
(Xem: 1720)
Trong Trung luận hay Trung đạo luận hay Trung quán luận (Mulamadhyamakakarika, Căn bản Trung luận tụng), bản văn căn bản của ngài Long Thọ,
(Xem: 2471)
Ngày Tết cũng là dịp để những người con Phật suy nghiệm về lẽ vô thường biến dịch của vạn pháp và của chính thân phận mình.
(Xem: 2177)
Sự tha thứ chữa lành vết thương cho người mà bạn cho là đã xúc phạm và chính bạn, người bị xúc phạm.
(Xem: 2121)
Cuối thế kỉ XIX cờ Phật giáo được thiết kế nhằm tượng trưngđại diện một cách thống nhất cho Phật giáo và được Phật tử trên khắp thế giới sử dụng.
(Xem: 1935)
Ngôn ngữ là hình thái biểu đạt ý tưởng.Tùy mỗi chủng loại có một âm ngữ riêng; âm ngữ của con người thể hiện qua ngôn ngữ ...
(Xem: 2326)
Chúng ta thường đấu tranh với việc chọn món quà nào là hoàn hảo. Chúng ta tập trung sự chú ý của mình chủ yếu vào các đối tượng và sự kiện.
(Xem: 1887)
Thực hành Tịnh độđơn giản. Cách tu tập này không yêu cầu hành giả phải được học về tư tưởng Phật giáo hoặc đặc biệt về giới, về thiền hoặc kỷ luật tâm linh.
(Xem: 1971)
Một trong những kết luậnPhật giáo và các nhà khoa học đều đồng ý là không có đấng tạo hóa.
(Xem: 2215)
Thiền pháp tỉnh thức (mindfulness meditation) đang trở thành một trong các khuynh hướng ưu thắng của nhiều lĩnh vực hoạt động tại Hoa Kỳ và nhiều nước khác.
(Xem: 1730)
Đức Phật giảng dạy tám mươi bốn ngàn pháp môn, mỗi pháp môn phù hợp cho trình độcăn cơ của chúng sinh tiếp nhận,
(Xem: 1990)
Niềm tin là nguồn nguyên liệu cần thiết cho sự sống. Không có niềm tin, con người ta sẽ chết, hoặc sống gần như chết
(Xem: 2003)
Tu, rốt cuộc là để nhìn vạn pháp đúng như chính nó.
(Xem: 2218)
Niệm Phật là một pháp môn dễ học, dễ tu, được đức Phật dạy rất sớm, rất nhiều trong các kinh, từ kinh Nikaya hệ thống ngôn ngữ Pali của Phật giáo Nguyên thủy.
(Xem: 1984)
Bài kinh “Bốn Hạng Người Hiện Hữu Ở Đời” được ghi lại trong Tăng Chi Bộ Kinh I, chương 4, phẩm Bhandagàma, phần Thuận Dòng.
(Xem: 1827)
Bài viết này được biên soạn bởi có nhiều Tỳ khưu hỏi tôi về những giới luật sử dụng tiền bạc được tìm thấy trong vinaya (Tạng Luật).
(Xem: 1812)
Đạo Phật có phải là một tôn giáo không là một câu hỏi không mới nhưng không cũ đối với những ai đến với đạo Phật chỉ bằng con đường tín ngưỡng đơn thuần.
(Xem: 1832)
Đi chùa lễ Phật, cầu gia hộ. Trước buổi học Phật pháp, hay lễ hội Phật sự, nghi thức đầu tiên đều là “niệm Phật cầu gia hộ”.
(Xem: 1951)
Đúng là nếu giữ được năm giới thì cơ bản sẽ không rơi vào ba đường ác và được tái sinh ít nhất là vào cõi người,
(Xem: 2251)
Trong kinh Thừa tự pháp, đức Phật dạy hàng đệ tử nên thừa tự giáo pháp của Ngài chứ không nên thừa tự tài vật của Ngài.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant