Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đạo Phật Đem Lại Hạnh Phúc Ngay Nơi Cuộc Đời Này

06 Tháng Mười Hai 201509:59(Xem: 8785)
Đạo Phật Đem Lại Hạnh Phúc Ngay Nơi Cuộc Đời Này
                                      Đạo Phật Đem Lại Hạnh Phúc Ngay Nơi Cuộc Đời Này


Đạo Phật Đem Lại Hạnh Phúc Ngay Nơi Cuộc Đời Này

Đạo Phậttư tưởng xuất thế gian nhưng lại có chủ trương đi vào cuộc đời, để sẵn sàng chia vui sớt khổ cùng với tất cả muôn loài. Ngày nay, Liên Hợp Quốc đã công nhận hình ảnh đức Phậtbiểu tượng của hòa bình thế giới. Ngài đã sáng lập ra đạo Phật, đạo của hoà bình, đạo của sự tỉnh thức, đạo của tình thương, đạo của con người vì sự thương yêu bình đẵng trên tinh thần hòa hợp về mọi mặt của cuộc đời.

 

Cách đây hơn 2600 năm, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã ra đời tại đất nước Ấn Độ là cội nguồn của nền văn minh sông Hằng, nơi có nền văn hóa cổ xưa lâu đời nhất hiện nay. Sự kiện trọng đại Đức Phật đã ra đời trong bối cảnh mọi người đang tôn thờ đấng Phạm Thiên, coi vị này là chúa tể của muôn loài vật. Ngài đản sanh tại vườn Lâm Tỳ Ni, ngoại thành Ca Tỳ La Vệ, ngày nay là xứ sở Nepal.

 

Khi Đức Thế Tôn ra đời, thị hiện là một vị Đông cung thái tử con vua Tịnh Phạn, mẹ là hoàng hậu Ma-Da, Ngài có địa vịdanh vọng nhưng chẳng đam mê lạc thú trần gian, quyết định ra đi tìm chân lý khi còn ở trong cung vàng điện ngọc.

 

Sau khi từ bỏ cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con xinh. Người đã tìm đến hai vị đạonổi tiếng thời bấy giờ để tu học. Trải qua năm năm tinh cần học đạo, những gì hai thầy đạt được Người đều thông suốt hết tất cả, nhưng vấn đề làm thế nào để giúp cho con người thoát khỏi già, bệnh, chết vẫn không giải quyết được. Do đó, Người từ giã hai vị thầy ấy, tiếp tục ra đi tầm sư học đạo.

 

Người nghe nói phương pháp tu ép xác khổ hạnhthể đạt đến quả vị Niết-bàn không còn khổ đau và người tu theo phương pháp này, chỉ mặc áo quần không khí, trét tro kín người, đứng một chân tìm mọi cách để hành hạ thân xác mình, vì mọi người tu theo lối này cho rằng làm như thế để mau được giác ngộgiải thoát. 

 

Người vào rừng sâu tu theo phương pháp ấy sáu năm trường khổ khổ hạnh ép xác, mỗi ngày chỉ ăn vài hạt mè, hạt bắp. Đến nổi thân thể Người ốm yếu gầy còm chỉ còn da bọc lấy xương, tiều tụy, xanh xao không còn sức để tu tập nữa. Cuối cùng Người bị ngất xỉu, ngã quỵ bên vệ đường.

 

Trong lúc sức cùng, lực tận không đi đứng nổi, may mắn thay, một cô gái chăn bò nhìn thấy liền đến dâng cúng cho Người một bát sữa. Nhờ bát sữa của cô gái chăn bò tốt bụng, Người dần hồi được tỉnh trở lại. Từ đó Người quán xét lại các phương pháp mà Người đã tu, nếu Người tu hành mà còn hưởng thụ dục lạc thế gian thì giống như người nấu cát muốn thành cơm, không thể nào đạt đến giác ngộ giải thoát được. Còn lối tu khổ hạnh ép xác chỉ làm cho thân thể tiều tụy khốn đốn, khổ sở, tinh thần bất an cũng không thể nào đạt được đạo quả. 

 

Sau đó, Người tự chiêm nghiệm quán chiếutìm ra phương pháp trung đạo, không hưởng thụ, không ép xác, sống quân bình trở lại, mỗi ngày đi khất thực, ăn đúng ngọ, ăn vừa đủ nuôi sống bản thân để hành trì tu tập.

 

Sau một thời gian thực hành theo phương pháp trung đạo, sức khỏe của Người được phục hồi trở lại bình thường và Người đến cội Bồ đề phát đại thệ nguyện: “Ta dù thịt nát xương tan, quyết không rời khỏi chỗ này nếu không chứng được đạo quả Vô thượng Bồ-đề”.

 

Người ngồi kiết-già liên tục thiền quán soi sáng lại chính mình suốt bốn mươi chín ngày đêm, tinh cần siêng năng chuyển hoá dùng trí tuệ thẩm thấu tâm tư mà không cần ăn uống gì cả. Tại đây Người đã giác ngộgiải thoát, chứng được tam minh.

 

Đầu tiên, Người chứng được Thiên nhãn minh, có được con mắt sáng suốt thấu rõ mọi sự vật từ gần cho đến xa mà con mắt phàm tình của chúng ta không thể nào thấy được. Người thấy rõ ràng con người sau khi chết sẽ tuỳ theo nghiệp tốt xấu của mình đã tạo trong hiện tại, mà được tái sinh chỗ xấu hay tốt.

 

Nếu ai gieo điều thiện lành tốt đẹp luôn giúp người cứu vật thì sẽ tái sinh trở lại ba đường lành; nếu ai gieo tạo nghiệp nhân xấu ác thì bị tái sanh vào ba dường dữ.

 

Ba đường lành là cõi trời, cõi người và a-tu-la; ba đường dữđịa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, chứ không phải chết là hết mà có rất nhiều người thường lầm tưởng như vậy, chết chỉ là thay hình đổi dạng tùy theo nghiệp nhân xấu tốt của mình đã tạo.

 

Do tu chứng mà thấy biết như vậy nên Phật nói: “Ta thấy chúng sanh đi trong sáu đường luân hồi, như người đứng trên lầu cao nhìn xuống ngã tư đường, thấy người qua kẻ lại, rõ ràng không sai sót”.

 

Phật thấy rõ vòng luân hồi vô cùng tận của tất cả chúng sinh, nên Người khởi tâm mở rộng tấm lòng từ bi thương xót mà hướng dẫn lại cho chúng ta.

 

Kế đến Người chứng được Túc mạng tinh, thấu suốt được sinh mạng của bản thân mình từ vô số kiếp về trước một cách rõ ràng, tường tận về các kiếp quá khứ sinh ra làm gì, ở đâu Người đều thấy rõ, biết rõ.

 

Điều này trong kinh A-hàm, Phật nói như sau: “Ta nhớ vô số kiếp về trước như người nhớ việc mới xảy ra ngày hôm qua”. Do đó, Người biết được con người từ đâu đến và sau khi chết đi về đâu.

Cuối cùng, Người chứng được Lậu tận minh, tức là biết cách thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết một cách rõ ràng và chỉ lại cho tất cả mọi người nếu ai muốn thoát ly sống chết.

 

Tuy nhiên như vậy, trong đạo Phật có cái hay là không bắt buột ai tin theo một cách mù quáng, cuồng tín, Người chỉ là thầy dẫn đường, chỉ cho ta biết con đường này dẫn đến an vui, hạnh phúc, con đường kia dẫn đến sa đọa khổ đau, còn làm được hay không là do tự mỗi người quyết định. Ai muốn tìm cầu giác ngộ, giải thoát để thành Phật rộng độ chúng sinh thì Người chỉ pháp tu hạnh Bồ-tát đạo.

 

Bồ-tát là người giác ngộ, không vì lợi ích riêng tư, luôn mở rộng tấm lòng thương yêu bình đẳng đến với mọi người, sẵn sàng giúp đỡ hay chia sẻ những gì mình đang có, từ vật chất cho đến tinh thần, lấy niềm vui của mọi người làm niềm vui cho chính mình.

 

Bồ-tát tu sáu pháp Ba-la-mật để diệt trừ phiền não khổ đau. Bồ tát thấy rõ tham lam, bỏn sẻn, ích kỷ, keo kiệt, hiểm độc là nhân nghèo khổ thiếu thốn khó khăn, cho nên Bồ-tát tu hạnh bố thí, cúng dường, giúp đỡ, sẻ chia để chuyển hoá lòng tham.

 

Thấy người ăn không ngồi rồi, buông lung sa đọa, cống cao ngã mạn làm cho đạo đức nhân cách băng hoại thì Bồ-tát tu trì giới để khuyên mọi người không sát sinh hại vật, không giant ham trộm cướp, không tà dâm, không nói dối hại người và không dung các chất gây say nghiện như là rượu, xì ke ma tuý cho nên nói “trì giới độ phá giới”.

 

Thấy người nóng giận là nhân gây thù chuốc oán, rồi dẫn đến chửi mắng, đánh đập cuối cùng giết hại, tạo ra nhiều tội lỗi mà làm cho mình và người phiền muộn khổ đau, cho nên Bồ-tát tu hạnh nhẫn, nhịn, nhường để chuyển hóa cơn giận dữ, cho nên nói “nhẫn nhục độ nóng giận”.


Thấy người lười biếng hưởng thụ bê tha là nhân dẫn đến hao tài tốn của, hư thân mất nết, chẳng giúp ích gì được cho ai Bồ-tát tu hạnh tinh tấn chuyên cần để chuyễn hóa ăn không ngồi rồi, nhàn cư vi bất thiện.

Thấy tâm tư lăng xăng, điên đảo, vọng tưởng là nhân dẫn đến bất an, lo sợ, Bồ-tát tu thiền định để dừng lắng mọi tâm tư vọng tưởng xấu ác có tính cách hại người vật, để sống trở lại với tâm thanh tịnh sáng suốt, cho nên nói “thiền định độ tán loạn”.

 

Thấy nhân ngu si là bị đọa vào ba đường xấu, nhất là các loài súc sinh Bồ-tát tu hạnh từ bi, trí tuệ để chiếu phá tối tăm, mờ mịt cho nên nói “trí tuệ độ ngu si”.

 

Ngoài việc biết tích lũy phước báo và siêng tu trí tuệ để cứu giúp chúng sinh, Bồ-tát còn phải tu sáu pháp Ba-la-mật để loại trừ các thói quen tật xấu, cho đến khi viên tròn quả mãn thì Bồ-tát thành Phật.

Đạo Phật đã hướng dẫn cho chúng ta thấu hiểu lý nhân quả để mỗi người sống có trách nhiệm hơn về những hành vi tạo tác của mình từ thân, miệng, ý.

 

Nếu trong cuộc sống, chúng ta hay làm các việc thiện lành tốt đẹp thì được hưởng phước báo cõi trời người, còn chúng ta làm điều xấu ác thì phải chịu quả khổ đau. Đó là quy luật tất yếu và sinh tồn của xã hội, không ai có quyền ban phước, giáng họa hay đày đoạ chúng ta cả.

Gieo nhân nào là gặt quả đó, chính đức Phật nhờ sự tu chứng mà thấy biết như thế và chỉ dạy lại cho chúng ta, chứ không phải do suy luận học hỏi từ kiến thức thế gian. Sự thấy biết của đức Phậtvô cùng, vô tận, không thể nghĩ bàn.

 

Thí dụ, như cách đây hơn 2.600 năm về trước, Người đã thấy rõ trong bát nước có vô số chúng sanh đang sống (vi trùng) hay là vô số thế giới trong bầu vũ trụ bao la này. Đến nay với sự tiến bộ của khoa học, các nhà bác học mới xác nhận điều này.

 

Còn nếu bảo rằng, tất cả mọi hiện tượng, sự vật là do ngẫu nhiên, đương nhiên, khi không mà hình thành tốt hoặc xấu, không có nhân quả, nghiệp báo thì mọi người sẽ sống vô trách nhiệm đối với hành vi tạo tác của chính mình.

 

Từ đó ỷ lại vào ân sủng của một đấng quyền năng nào đó… để chúng ta sống vô ý thức không chịu siêng năng làm việc mà ăn không ngồi rồi làm khổ cho gia đìnhxã hội. Để chuyển hoá được phiền muộn khổ đau thành an vui hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ, đạo Phật đã chỉ cho mọi người hãy nên tin sâu nhân quảáp dụng vào trong đời sống hằng ngày.

 

Chúng ta hãy nghe lời giáo huấn của sư ông Trúc Lâm:

 

“Không có tâm rộng rãi bao dung lo cho tất cả chúng sinh thì không bao giờ tụi con tu đạt được kết quả tốt, vì đó là tâm ích kỷ nhỏ nhen. Tâm nhỏ nhen làm sao làm được việc lớn, làm sao thấy được đạo lớn. Thế cho nên, chúng ta phải bỏ cái nhỏ để được cái lớn.

 

Đức Phật từ bỏ cha mẹ, vợ con, thân thuộc và bỏ cả đất nước để lo cho hết thảy chúng sinh. Từ tâm rộng rãi đó Ngài mới đạt đạo, mới đi giáo hoá chúng sinh được.

 

Tụi con nghiệm kỹ, nhìn từng trường hợp nhỏ sẽ thấy người nào đi tu mà còn tâm ích kỷ hẹp hòi khó đạt được đạo. Ai đi tu nghĩ tới mọi người, vì ngộ đạo để chỉ dạy cho chúng sinh cùng được giác ngộ, người đó có thể làm được việc lớn.

 

Tâm niệm rộng rãi đó, chúng ta phải học, phải noi theo, còn những cái ích kỷ nhỏ mọn mình nên dẹp bỏ. Như vậy tụi con mới đạt được sở nguyện trên đường tu hành.”

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 808)
Theo truyền thuyết, rồng là loài vật linh thiêng, có thần thông, có khả năng làm mưa, phun ra khói, lửa, thăng, giáng, ẩn, hiện, biến hóa lớn nhỏ một cách tự tại.
(Xem: 1206)
Trí tuệ giống như ánh sáng, và có ba cấp độ:
(Xem: 760)
Chúng ta thường nghe dặn dò rằng, hãy tu đi, đừng nói nhiều, đừng lý luận nhiều, đừng dựa vào chữ nghĩa biện biệt sẽ dễ loạn tâm
(Xem: 870)
Trước khi tìm hiểu chủ đề “Nương thuyền Bát nhã là gì? ”, chúng ta cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của từ Bát nhã.
(Xem: 816)
Từ “Phật” (Buddha) đã được biết đến và lưu truyền trước khi Đức Phật xuất hiệnẤn Độ.
(Xem: 775)
Đức Phật, Ngài là con người, bằng xương bằng thịt, như bao nhiêu con người khác...nhưng Ngài là một con người giác ngộ, tỉnh thức...
(Xem: 783)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 782)
Trời có lúc nắng lúc mưa, người có lúc may mắn hoặc xui xẻo. Nhưng không có cái gì tự dưng sinh ra hay mất đi, tất cả đều có lý do của do của nó.
(Xem: 701)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 945)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1264)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1426)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 1172)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1489)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 955)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 855)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 962)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 985)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 956)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 975)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 1107)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 928)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 1068)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 1063)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 996)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 1024)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 943)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1101)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 1044)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 960)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 1066)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 998)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 930)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 1029)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 965)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1215)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 995)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1093)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1241)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1687)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1257)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1331)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1189)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 1053)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 1015)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 1039)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 893)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1565)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1452)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1418)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant