Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bổn Phận Của Người Đệ Tử Phật

31 Tháng Mười Hai 201515:39(Xem: 10087)
Bổn Phận Của Người Đệ Tử Phật

BỔN PHẬN CỦA NGƯỜI ĐỆ TỬ PHẬT

Thánh Tri

Bổn Phận Của Người Đệ Tử Phật

Từ khi thái tử Tất Đạt Đa giác ngộ thành Phật dưới gốc cây Bồ Đề, lăn chuyển bánh xe chánh pháp, chư tổ sư hoằng dương truyền xuống từng đời trải bao thế kỷ, vượt bao thế hệ, làm lợi ích cho vô số chúng sanh, xóa mây mù tà kiến, hiển bày trí tuệ sáng ngời, cho đến ngày nay đạo Phật vẫn còn sáng chói như mặt trời giữa trưa. Thâm ân của Phật, Tổ và bao nhiêu người tăng lẫn tục xưa nay đã chịu bao khó nhọc, đổ bao xương máu để duy trì mạng mạch của Phật Pháp, thật cao cả vĩ đại như núi tuyết, khó mong đền đáp. Người xuất gia thì chăm lo việc học đạo, tham thiền (tu đạo), và truyền bá chánh pháp. Người tại gia thì chuyên lo việc thân cận học hỏi, phụng sự cúng dường, giúp đỡ các vị xuất gia hoằng Phật Pháp, và làm tròn Tam Quy Ngũ Giới, mang lại lợi ích cho mình và người, gieo trồng căn lành và ruộng phước cho đời hiện tạivị lai. Ai cũng hiểu rõ và làm đúng bổn phận mình, thật quý thay! Song, ở thế kỷ 21, pháp thâm sâu vi diệu của đức Phật vẫn còn đó, mà có mấy người lãnh hội được và tu cho đúng!? Do vậy đó mới là chỗ hở yếu làm cho ngoại đạo có thể xâm nhập, lay chuyển, và cải đạo. Buồn thay cho kiếp vận của Phật Giáo! Tiếc thay cho những người không đủ nhân duyên!

 

Song, có buồn có tiếc cũng không làm gì được bởi mỗi người nhân duyên nghiệp quả khác nhau. Đến với Phật Pháp cũng vì chữ duyên, rời Phật pháp cũng là một chữ duyên. Do vậy Kinh Lăng Nghiêm nói “Các pháp từ xưa đến nay, đều theo nhân duyên hư vọng hòa hợp mà sinh, do nhân duyên hư vọng biệt ly mà diệt.” Nên một trong ba việc mà đức Phật làm không được (tam bất năng) là “độ chúng sanh không duyên”. Đó thì càng chứng tỏ lời Phật dạy từ hơn hai ngàn năm trước là đúng.

 

Chỉ trách lấy mình lơ là không tinh tấn tu hành để Minh Tâm Kiến Tánh như Phật và chư Tổ thuở xưa. Đã còn là người trong đường mê sanh tử thì làm sao mà đủ sức trí tuệđức hạnh để khai mở đạo nhãn cho người khác được. Thế thì lực bất tùng tâm, muốn đem ánh sáng trí tuệ chiếu tan màng vô minh đen tối của chúng sanh, mà chính mình chưa sáng đạo thì không thể làm được vậy. Như Kinh Duy Ma Cật nói: “Chỗ sanh chẳng bị trói buộc mới có thể thuyết pháp mở trói cho chúng sanh. Như lời Phật thuyết: Nếu tự mình bị trói mà mở trói được cho người thì chẳng có chỗ đúng. Nếu tự mình chẳng bị trói, thì mới có thể mở trói cho người. Vì thế Bồ Tát chẳng nên có sự trói buộc.” Do vậy mà chính mình phải nỗ lực tu đạo để thấy đạo, một khi đã thông suốt thì mới có thể tùy duyêntùy cơgiáo hóa khắp chúng sanh. Đó là bổn phận và trách nhiệm chung của những người Phật Tửxuất gia hay tại gia.

 

Muốn cùng nhau lăn chuyển bánh xe chánh pháp của Phật, người đệ tử Phật phải có Tu Đức, nghĩa là mỗi người Phật Tử bất luận tại gia hay xuất gia đều phải có sự thực hànháp dụng Phật Pháp vào đời sống hằng ngày, hơn là tin và nói suông. Xuất gia thì nỗ lực học đạo tham thiền, tầm cầu minh sư khai mở đạo nhãn, nhiếp tâm nơi chỗ một niệm chưa sanh như mèo rình chuột, quyết làm tròn chí nguyện xuất gia ban đầu, tức thượng cầu giác ngộ, dưới hóa độ chúng sanh (Thượng Cầu Hạ Hóa), lấy giác ngộ giải thoát làm mục tiêusự nghiệp duy nhứt của đời mình (Duy Tuệ Thị Nghiệp). Tại gia thì chăm lo việc làm tròn bổn phận cho gia đình, xã hội, và bổn phận của người Phật Tử tức là một đời Quy Y Phật, Pháp, Tăng Tam Bảo, quyết chẳng theo thầy tà bạn ác, bỏ ác làm lành giữ tâm trong sạch, thân cận chư tăng để học hỏi và trợ giúp các ngài tu đạo, hoằng pháp, lợi sinh. Mỗi bên ai nấy đều tròn bổn phận tu đức, hổ trợ lẫn nhau cùng nhau lang tỏa giới đức, thì mùi hương của đức hạnh tự tỏa khắp muôn phương, những ngọn đèn trí tuệ tự sẽ thắp sáng khắp những nẽo đường đen tối, khiến chúng sanh có chỗ nương về, và rồi chính họ cũng tự thắp sáng ngọn đèn trí tuệ của chính họ, được an vui giải thoát thật sự.

 

Huyền diệu thay! Chỉ cần ai nấy giữ tròn bổn phận của chính mình và thực hành Pháp Bảo (tức tu Giới-Định-Tuệ) thì tự nhiên góp phần lăng chuyển bánh xe chánh pháp làm lợi ích không những cho chính mình mà còn muôn loài chúng sanh nữa! Chứ đâu cần phải làm những điều gì kỳ hoặc khác!

 

Khi đã có tu đức thì ai cũng trở nên dễ thương, hiền hòa, từ tốn, và kính trọng lẫn nhau. Do vậy một tăng đoàn sẽ có hòa hợp, và hàng bạch gia cũng hòa hợp. Một khi có hòa hợp chúng giữa tăng chúng, giữa hàng tại gia, và giữa tăng lẫn tục thì mới có sự đoàn kết, nên không còn tình trạng “nhất tăng nhất tự” nữa; ngược lại sẽ là “thiên tăng nhất tự” hay một Đại Tùng Lâm Thạch Trụ, như đạo tràng của chư Tổ thuở trước đều dung chứa cả ngàn tăng chúng theo tu học, đào tạo ra không biết bao nhiêu là người giác ngộ lỗi lạc, ai cũng là Phật của một góc trời, làm cho Phật Pháp vững mạnh và vang lừng khắp nơi, cũng như vô số chúng sanh được nương nhờ ơn pháp nhũ. Có sự hòa hợp và đoàn kết nên làm gì cũng thành công, đặc biệt là việc hoằng dương và duy trì huyết mạch của Phật Pháp. Thiếu hòa hợp và đoàn kết thì sẽ thất bại và khiếm khuyết về mọi mặt. Do vậy người xưa nói “hổ ly sơn hổ bại, tăng ly chúng tăng tàn.”

 

Phật ra đời khó khặp như hoa Ưu Đàm quý hiếm, Pháp của Phật lại càng khó được nghe. Nay được thân người đã là việc hi hữu, lại được nghe Phật Pháp thì quả thật là người có đại phước đức, nhân lành nhiều đời đã từng gieo trồng rất sâu, nay lại hội đủ nhân duyên mà được quả nghiệp làm người lại được nghe Phật Pháp thì thật khôngtốt đẹp hơn! Vậy thì phải nên trân trọng cái thân người và quý kính Phật Pháp, đừng bỏ lỡ cơ hội vạn đời khó khặp nầy!

 

Trân trọng thân người là biết cách sống đúng với năm nhân tính của một con người; một là biết tôn trọng mạng sống của mình và người; hai là tạo ra nguồn sống chân chính để nuôi thân bằng đôi bàn tay, khối óc và con tim thương người; ba là tạo ra hạnh phúc cùng nhau bằng lý trítình thương đem lại những đều tốt đẹp cho đôi bên (người tại gia); bốn là tập nói những lời dễ thương tức là biết dùng lời nói nhẹ nhàng, êm ái, thân thương, đoàn kết và xây dựng; và năm là tập giữ gìn sự định tĩnh và trong sáng của tâm hồn bằng cách không đam mê những thứ có tính cách kích thích làm đầu óc mê mờ như rượu bia, thuốc lá, cờ bạc ma túy, xì ke và v.v… Đó chính là năm nhân tính căn bản của một con người lương thiệnđạo đức.  

 

Một khi đã là người lương thiệnđạo đức rồi, thì tiếng thêm một bước nữa là biết quý kính Phật Pháp. Quý kính Phật Pháp thì dành thì giờ rỗi rãnh tìm hiểu Phật Pháp bằng cách đọc kinh sách của chư Tổ đi trước và tầm cầu thiện tri thức trong hiện tại với tâm nhiệt quyết và chí thành, quyết nắm cho được đầu mối vào cửa đạo mới thôi, ngày nào chưa làm được thì ăn ngủ không yên. Khi hiểu được lời dạy của Phật, Tổ và thiện tri thức rồi thì phải thực hành, chứ đừng có học một bụng cho nhiều tri giải rồi đi khắp đó đây bàn luận hơn thua cho qua ngày tháng, rốt cuộc uổng công vô ích, bỏ đi cả một đời học Phật và hành đạo. Khi già yếu chết đi vẫn là người chưa rõ đầu mối sanh tử, nên phải tiếp tục theo nghiệp mà thọ sanh đời khác, không biết có còn được thân người và gặp được Phật pháp nữa không. 

 

Có học và hành Phật Pháp rồi thì mới mang lại những điều lợi ích chân thật cho chính mình, gia đình, đất nước xã hội, và cả thế giới này. Và khi được lợi lạc an vui bằng cách sống đúng theo lời dạy của Phật, Tổ và các vị thiện tri thức thì tự nhiên mình sẽ có một niềm tin vững mạnh chân chính đối với Tam Bảo: Phật, Pháp, Tăng. Mình nhờ ân ngôi Tam Bảo mà được biết cách sống tốt đẹp và sống một đời sống bình an lợi lạc. Nhờ theo lời dạy của Tam Bảo mà mình bỏ ác làm lành giữ tâm trong sạch nên sống chết vẫn bình an, dù phải chết theo luật Vô Thường nhưng biết rằng trọn cả một đời mình bỏ ác làm lành giữ tâm trong sạch chắc chắn sẽ tái sanh về cõi lành nên được tâm hoan hỉ tràng đầy pháp lạc mà ra đi. Nếu người Phật tửtại gia hay xuất gia làm được những điều như thế ắt tâm sẽ vững chãi đối với Phật, Pháp, Tăng nên sẽ không bị tà thuyếtngoại đạo lay chuyển đến nổi phải cải đạo.

 

Phật là giác mà không mê. Pháp là chánh mà không tà. Tăng là tịnh mà không cấu. Quy Y Tam Bảo chân chính thì trở về nương tựa với Giác, Chánh, Tịnh nơi tự Tâm mình. Một khi đã trở về với Tâm Giác Chánh Tịnh thì được giải thoát khỏi tất cả gông cùm của vọng thức phiền não, đó gọi là ra khỏi nhà Phiền Não (Xuất Phiền Não Gia), và giải thoát khỏi vòng luân hồi sanh tử trong ba cõi được vô sanh niết bàn, đó gọi là ra khỏi nhà Tam Giới (Xuất Tam Giới Gia). Dẫu hiện tại chưa thể làm được đều ấy, nhưng ít ra nếu mình thật tâm Quy Y Tam Bảo thì mình cũng bớt cái ngu si mê muội, bớt cái tà kiến sai trái, gạn lọc bớt những cấu bẩn của thân tâm. Có như vậy cũng có thể mang lại đời sống tốt đẹpan ổn cho chính mình, gia đình mình, đất nước và thế giới. Quy y Tam Bảo được tốt đẹp như thế sao còn tìm kiếm và nghe theo những thứ tà thuyết si mê sai lầm, trái nhân quả của ngoại đạo được? Nếu sống một cách si mê lầm lạc, trái nhân quả thì chỉ mang lại đời sống khổ đau cho chính mình và người thêm thôi! Không được lợi ích gì cả! Phải suy xét cho kỹ càng về điều này!

 

Người thời nay học sai, hiểu sai và thực hành sai giáo pháp của Phật, cũng như học nhiều mà không thực hành chỉ nói suông nên không đủ đạo lực để cứu lấy chính mình và phá trừ ngoại đạo tà kiến, nên mới khiến cho quần chúng, Phật Tử sanh nghi ngờ nơi Tam Bảo, mới dễ bị ngoại đạo thuyết phục bằng nhiều cách như tiền tài danh lợi, chạy theo tà kiến si mê lầm lạc trái nhân trái quả của họ. Thật đáng buồn thay! Đáng tiếc thay!

 

Do vậy bổn phận của người đệ tử Phật là phải học cho kỹ về lời dạy của đức Phật, chư Tổ giác ngộ đi trước, và thiện tri thức cùng minh sư trong hiện tại, và y như pháp mà thực hành. Đệ tử tại gia hay xuất gia ai ai cũng làm tròn bổn phận của mình, hỗ trợ nhau, làm thiện tri thức của nhau trên con đường thật tu thật ngộ của Phật. Có như vậy thì đức hạnh của mỗi người tự lan tỏa và chang hòa khắp muôn phương, chúng sanh đều được nhờ nương lợi lạc, vững tâm, chánh tínthành kính đối với Tam Bảo, làm đẹp cho đời cho đạo trong hiện tại và mãi tận đời vị lai. Mong thay! Rất mong lắm thay!

 

Đạo vốn không lời

Cũng chẳng phải không lời

Đạo không thể chỉ

Cũng chẳng phải không thể chỉ

Cần phải tự khế hội

Bằng con đường Đạo Học

Chẳng phải Triết Học suông

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 595)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 780)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1101)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1268)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 997)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1341)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 791)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 763)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 808)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 823)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 802)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 790)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 948)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 835)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 988)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 1007)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 929)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 932)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 858)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1015)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 956)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 897)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 995)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 910)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 850)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 958)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 885)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1144)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 915)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1017)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1156)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1617)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1165)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1261)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1113)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 978)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 920)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 960)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 806)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1486)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1366)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1330)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1274)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1379)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1334)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1478)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1355)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1208)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1267)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1326)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant