Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đau Khổ Đi Theo Sau Người Làm Ác (song ngữ)

04 Tháng Hai 201615:37(Xem: 9629)
Đau Khổ Đi Theo Sau Người Làm Ác (song ngữ)

ĐAU KHỔ ĐI THEO SAU NGƯỜI LÀM ÁC
Câu Chuyện Về Nhà Sư Cakkhupāla

Kệ 1 - Kho Báu Sự Thật, Kinh Pháp Cú Minh Họa | Chuyển Ngữ: Nguyễn Văn Tiến  
(Suffering Follows The Evil-Doer - The Story Of The Monk Cakkhupāla, Verse 1 - Treasury Of Truth

Dau kho

Đau Khổ Đi Theo Sau Người Làm Ác - Câu Chuyện Về Nhà Sư Cakkhupāla, Kệ 1 - Kho Báu Sự Thật, Kinh Pháp Cú Minh Họa 

BÀI KỆ 1:

Ý nghĩ dẫn đầu tất cả mọi điều chúng ta nhận biết,
ý nghĩ là chủ, là cốt yếu, mọi việc đều bắt nguồn từ ý nghĩ.
nếu một người có ý nghĩ xấu
rồi người nầy có lời nói xấu, hoặc người nầy có hành động xấu
thì đau khổ sẽ theo sau người nầy,
giống như bánh-xe-bò lăn theo chân con-bò kéo.

 

Trong khi cư trú tại Tu Viện Kỳ Viên(Jetavana) ở Xá Vệ(Savatthi), Đức Phật đã nói bài kệ nầy, về nhà sư mù Cakkhupāla.

 

một lần, nhà sư Cakkhupāla đến đảnh lễ Đức Phật tại Tu Viện Kỳ Viên(Jetavana). Trong một đêm nhà sư đi thiền hành tại nơi nầy, nhà sư vô tình đạp phải một số côn trùng. Sáng ngày hôm sau, một số nhà sư đến thăm nhà sư Cakkhupāla, và các nhà sư nầy trông thấy các côn trùng đã bị đạp chết. Họ nghĩ không tốt về nhà sư Cakkhupāla, và họ báo sự việc đến Đức Phật. Đức Phật hỏi họ rằng, họ có nhìn thấy nhà sư Cakkhupāla giết chết côn trùng không. Khi họ trả lời là không, Đức Phật nói rằng, "Giống như các ông không nhìn thấy ông ta giết chết côn trùng, cũng như thế, ông Cakkhupāla vì bị mù nên ông đã không nhìn thấy nên đạp chết các con côn trùng. Bên cạnh đó, ông Cakkhupāla không còn ý muốn sát sanh, bởi vì ông ta đã đạt được quả A La Hán, cho nên ông ta không có tội." Sau đó các nhà sư hỏi Đức Phật là tại sao nhà sư Cakkhupāla bị mù, trong khi ông là một vị A La Hán, Đức Phật liền kể câu chuyện sau đây:

 

Một trong số các kiếp trước của nhà sư, Cakkhupāla là một bác sĩ. Trong một lần ông chữa bệnh ông đã cố tình làm cho một phụ nữ, là bệnh nhân của ông, bị mù. Người đàn bà nầy đã hứa với ông là nếu ông chữa khỏi bệnh đau mắt của bà, thì bà và các con của bà sẽ tình nguyện làm nô lệ cho ông. Sau khi ông bác sĩ chữa mắt cho bà, bà đã nói với ông rằng mắt bà trở nên tệ hại hơn trước, trong khi trên thực tế, mắt của bà đã hoàn toàn được ông chữa lành. Bà đã nói dối ông bác sĩ, bởi vì bà lo sợ rằng bà và con bà sẽ trở thành các người nô lệ của ông. Ông bác sĩ biết rằng bà đang lừa dối ông, và để trả thù bà, ông đã cho bà một loại thuốc bom-mát khác, và loại thuốc xoa mắt nầy đã làm cho bà hoàn toàn bị mù. Vì việc làm ác đức nầy, kết quả là ông bác sĩ đã bị mù rất nhiều lần, trong các kiếp sống kế tiếp của ông.

 

BÀI KỆ 1, CHUYỂN NGỮ TỪ TIẾNG PALI:

 

dhammā manopubbaṅgamā manoseṭṭhā manomayā ce paduṭṭhena manasā bhāsati vā karoti vā tato dukkhaṃ naṃ anveti vahato padaṃ cakkaṃ iva.

 

dhammā: kinh nghiệm; manopubbaṅgamā: ý nghĩ đi trước; manoseṭṭhā: ý nghĩ là chủ, là cốt yếu; ce: do đó, nếu, paduṭṭhena: (có ý) xấu xa, đồi bại; manasa: ý nghĩ; bhāsati: (người) nói; karoti vā: hoặc là hành động; tato: vì lý-do đó, dukkham: đau khổ; nam: người đó; anveti: đi theo sau; vahato padam: bước chân bò nặng nề vì phải kéo xe; cakkaṃ iva: tương tự như bánh-xe bò.

 

Tất cả những gì chúng ta hiểu biết, kinh nghiệm bắt đầu bằng ý nghĩ. Lời nói và hành động của chúng ta bắt nguồn từ ý nghĩ. Nếu chúng ta nói hoặc hành động với ý nghĩ độc-ác, chắc chắc chúng ta sẽ gặp hoàn cảnh không tốt, và kết quả là chúng ta phải gánh chịu sự đau khổ. Nếu chúng taý nghĩ xấu, thì cho dù chúng ta đi đâu, chúng ta cũng sẽ gặp hoàn cảnh xấu. Nếu chúng ta tiếp tụcý nghĩ xấu, đau khổ sẽ đi theo chúng ta. Điều nầy cũng giống như là bánh-xe bò đi theo chân con bò kéo xe. Quả đúng như thế, bánh-xe bò, cùng với cái-xe bò chứa hàng nặng nề, sẽ cùng đi theo con bò kéo xe. Con bò đã bị ràng buộc với cái xe-bò chứa hàng nặng nề, nên nó không thể tự do chạy nhảy được.

 

Bài kệ 1 trong Kinh Pháp Cú nầy, anh Tâm Minh Ngô Tằng Giao đã chuyển dịch thành thơ như sau:

(1) Việc làm của bản thân ta. Do tâm, do ý tạo ra, dẫn đầu. Nói năng, hành động trước sau. Ý mà ô nhiễm: khổ đau theo kề. Tựa như là cái bánh xe. Theo chân con vật kéo lê trên đường.

 

BÌNH LUẬN:

 

Bài kệ đầu tiên trong Kinh Pháp Cú cho chúng ta thấy một khái niệm quan trọng trong Đạo Phật. Trong khi điều quan trọng trong giáo lý của nhiều tôn giáo khác, cho rằng thế giới được một vị thần linh siêu việt gọi là "Thượng Đế" tạo ra, Đạo Phật dạy rằng tất cả những gì chúng ta kinh nghiệm, hiểu biết (về thế giới, cũng như về cá nhân chúng ta) được tạo ra bởi ý nghĩ, hoặc là bởi quá trình nhận thức, thí dụ như sự nhận biết qua giác quan, và quan niệm. Điều nầy cũng chứng minh rằng, một số tác giả đã nhầm lẫn khi viết rằng Đức Phật đã im lặng khi có người hỏi ngài về chỗ bắt đầu của thế giới. Bài Kinh Rohitassa trong Kinh Tăng Chi Bộ, Đức Phật có nói rõ ràng về thế giới, về chỗ bắt đầu của thế giới, và chỗ tận cùng của thế giới, và con đường đi đến chỗ tận cùng của thế giới. Tất cả nằm ở trong tấm thân, có chiều cao 1.8 mét nầy (1 fathom = 1.8 mét), qua sự nhận biếtquan niệm của chính chúng ta.

 

Từ ngữ mano thường được dịch là 'tâm'. Tuy nhiên, Đức Phật có một quan điểm hiện-tượng-luận (lý thuyết mà nói rằng mọi kiến thức bắt nguồn từ hiện tượng) nói đến sự tranh cãi về tâm-và-thân đã làm rối trí nhiều triết gia, từ trước đến nay. Đức Phật đã từ bỏ ý tưởng nhị-nguyên - 'tâm' và 'thân'. Bài Kinh Sabba trong Kinh Tương Ưng Bộ, Đức Phật giải thích rằng tất cả mọi điều chúng ta nói đến là 'kinh nghiệm qua giác quan', bao gồm ý nghĩ, hoặc là quan niệm như là giác quan thứ sáu. Từ ngữ nāma và rūpa, thường được dịch là "tâm" và "thân thể" không phải là hai 'thực thể' riêng biệt, mà chúng cùng tồn tại trong mối quan hệ với nhau. Hai từ ngữ nầy là hai cách nhìn vào một 'sinh hoạt' duy nhất gọi là 'kinh nghiệm'. Nāma (đặt tên) là 'kinh nghiệm' được nhìn một cách chủ quan như là "một quá trình tinh thần của việc xác nhận một đối tượng'(rūpa kāye adhivācana saṃpassa).

 

Rūpa (hình tướng) là 'kinh nghiệm' được nhìn một cách khách quan như là một 'thực thể(thí dụ như con người)' mà được nhận biết và hình thành qua một quá trình tinh thần của sự nhận dạng (nāma kāye pathigha saṃpassa). Mano nói về 'ý nghĩ' hoặc là quá trình tinh thần của khái niệm, trong đó có sự phối hợp và làm cho có ý nghĩa, qua những nhận biết khác nhau, được đưa-vào qua các giác-quan khác nhau. Tất cả mọi 'kinh nghiệm' quan trọng nầy chính là dhammā(Pháp), được nhìn một cách chủ quan như là 'xác nhận một thực thể(thí dụ như con người)'(nāma) và một cách khách quan như là 'một thực thể(thí dụ như con người) được xác nhận' (rūpa). Dhammā(Pháp) chính là "tất cả mọi kinh nghiệm quan trọng" thường được xem như là tình-huống dễ chịu hoặc là khó chịu (loka dhamma)

Suffering Follows The Evil-Doer - The Story Of The Monk Cakkhupāla, Verse 1 - Treasury Of Truth, Illustrated Dhammapada

 

VERSE 1:

Mind precedes all knowables, mind’s their chief, mind-made are they.

if with a corrupted mind one should either speak or act dukkha follows caused by that, as does the wheel the ox’s hoof.

 

While residing at the Jetavana Monastery in Sāvatthi, the Buddha spoke this verse, with reference to Cakkhupāla, a blind monk.

 

On one occasion, Monk Cakkhupāla came to pay homage to the Buddha at the Jetavana Monastery. One night, while pacing up and down in meditation, the monk accidentally stepped on some insects. In the morning, some monks visiting the monk found the dead insects. They thought ill of the monk and reported the matter to the Buddha. The Buddha asked them whether they had seen the monk killing the insects. When they answered in the negative, the Buddha said, “Just as you had not seen him killing, so also he had not seen those living insects. Besides, as the monk had already attained arahatship he could have no intention of killing, so he was innocent.” On being asked why Cakkhupāla was blind although he was an arahat, the Buddha told the following story:

 

Cakkhupāla was a physician in one of his past existences. Once, he had deliberately made a woman patient blind. That woman had promised to become his slave, together with her children, if her eyes were completely cured. Fearing that she and her children would have to become slaves, she lied to the physician. She told him that her eyes were getting worse when, in fact, they were perfectly cured. The physician knew she was deceiving him, so in revenge, he gave her another ointment, which made her totally blind. As a result of this evil deed the physician lost his eyesight many times in his later existences.

 

EXPLANATORY TRANSLATION (VERSE 1)

 

dhammā manopubbaṅgamā manoseṭṭhā manomayā ce paduṭṭhena manasā bhāsati vā karoti vā tato dukkhaṃ naṃ anveti vahato padaṃ cakkaṃ iva.

 

dhammā: experience; manopubbaṅgamā: thought precedes; manoseṭṭhā: thought is predominant; ce: therefore, if, paduṭṭhena: (with) corrupted; manasā: thought; bhāsati: (one) speaks; karoti vā: or acts; tato: due to it, dukkhaṃ: suffering; naṃ: that person; anveti: follows; vahato padaṃ: draught animal’s hoof; cakkaṃ iva: as the cart wheel.

 

All that we experience begins with thought. Our words and deeds spring from thought. If we speak or act with evil thoughts, unpleasant circumstances and experiences inevitably result. Wherever we go, we create bad circumstances because we carry bad thoughts. We cannot shake off this suffering as long as we are tied to our evil thoughts. This is very much like the wheel of a cart following the hoofs of the ox yoked to the cart. The cart-wheel, along with the heavy load of the cart, keeps following the draught oxen. The animal is bound to this heavy load and cannot leave it.

 

COMMENTARY

 

The first two verses in the Dhammapada reveal an important concept in Buddhism. When most religions hold it as an important part of their dogma that the world was created by a supernatural being called ‘God’, Buddhism teaches that all that we experience (the ‘world’ as well as the ‘self’) is created by thought, or the cognitive process of sense perception and conception. This also proves that writers on Buddhism are mistaken in stating that the Buddha was silent concerning the beginning of the world. In the Rohitassa Sutta of the Aṇguttara Nikāya, the Buddha states clearly that the world, the beginning of the world, the end of the world, and the way leading to the end of the world, are all in this fathom long body itself with its perceptions and conceptions.

 

The word mano is commonly translated as ‘mind’. But the Buddha takes a phenomenalistic standpoint in the mind-matter controversy that had baffled philosophers throughout history. The duality – ‘mind’ and ‘body’ – is rejected by the Buddha. The Buddha explains in the Sabba Sutta of the Saṃyutta Nikāya that all that we can talk about is ‘sense experience’, including thought or conception as the sixth sense. The terms nāma and rūpa, commonly translated as ‘mind’ and ‘body’ are not two ‘entities’ that co-exist in relation to each other. They are only two ways of looking at the single ‘activity’ called ‘experience’. Nāma (naming) is ‘experience’ seen subjectively as ‘the mental process of identifying an object’ (rūpa kāye adhivācana saṃpassa).

 

Rūpa (appearance) is ‘experience’ seen objectively as an ‘entity’ that is perceived and conceived through the mental process of identification (nāma kāye pathigha saṃpassa). Mano refers to ‘thought’ or the mental process of conceptualization, which integrates and makes meaning out of the different percepts brought in through the different senses. This meaningful total ‘experience’ is the dhammā, viewed subjectively as ‘identification of an entity’ (nāma) and objectively as ‘the entity identified’ (rūpa). Dhammā which is this “meaningful totality of experience” is normally seen as pleasant or unpleasant cir
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2068)
Sống ở đời ai cũng mong cầu được hạnh phúc. Hạnh phúc là gì?
(Xem: 2219)
Ở đời bất cứ sự kiện nào xảy ra cũng có nguyên do của nó. Như bài kinh “Bát Đại Nhân Giác” xuất hiện trên thế gian này cũng không ngoại lệ.
(Xem: 1714)
Hai chữ vô thường rất quen thuộc với mọi người chúng ta, trong đời sống hàng ngày ai ai cũng nghe và nói.
(Xem: 2036)
Tư tưởng nhân quả Phật giáotư tưởng nổi bật trong nhân sinh quan Phật giáo.
(Xem: 1743)
Chúng ta đang chứng kiến những bất ổn xã hội hay thiên tai trên toàn thế giới, Việt Nam không phải là ngoại lệ khi gần đây
(Xem: 1732)
Sống phải có niềm tin, nhưng đừng tin quá vào một người, dù người đó là ai, có địa vị như thế nào trong xã hội.
(Xem: 1901)
Đức Phật đã dạy cho hàng đệ tử về mối tương quan và lợi ích của việc thực hành bốn nhiếp pháp trong Kinh Tăng Chi Bộ,
(Xem: 1912)
Đức Phật Thích Ca Như Lai của chúng ta, lúc mới phát tâm, đã vì ta mà tu Bồ tát đạo, trải qua vô lượng kiếp chịu đủ các thứ khổ cực.
(Xem: 1566)
“Không làm các việc ác Siêng làm các việc lành Thanh tịnh hoá tâm ý…”
(Xem: 1735)
Việc khấn nguyện, cầu nguyện là một vấn đề tâm linh rất phổ biến của tín đồ mọi tôn giáo và không cứ gì mùa xuân mà việc khấn nguyện...
(Xem: 2076)
Hồi sáng, lúc đi thiền hành ở Xóm Thượng, tôi đi xuôi xuống chùa Sơn Hạ. Mỗi bước chân giúp tôi tiếp xúc với sự sống rất sâu sắc
(Xem: 1824)
Chế độ ăn kiêng của bạn có thể giúp dự đoán bạn sống được bao lâu.
(Xem: 2390)
Đức Phật dạy “Thân người khó được, Phật pháp khó nghe”. Biết điều này, khi được là con Phật, ta sẽ thấy mình thật hạnh phúc vì ...
(Xem: 1718)
Không ít Phật tử đến chùa quy y, học Phật pháp, công quả, tham gia các hoạt động Phật sự, thường theo cảm tình đối với người Thầy ở nơi mình đến hơn là...
(Xem: 1721)
Giữ năm giới là khó, giữ gìn một cách hoàn hảo càng khó hơn. Muốn giữ giới hoàn hảo, trước phải học và thông hiểu về mỗi giới
(Xem: 1681)
Đóng cửa các nẻo đường xấu ác để chúng sanh không bị sa rớt xuống các nẻo địa ngục, quỷ đói, súc sanh.
(Xem: 2126)
“Chớ bảo xuân tàn, hoa rụng hết. Đêm qua sân trước một cành mai”
(Xem: 1951)
Người ta nói uống trà là thú vui tao nhã, thanh cao. Thú vui cuộc đời nói chung có hai loại là thanh cao và không thanh cao.
(Xem: 2093)
Mỗi khi mùa xuân mới về là trời đất lại thanh tân, vạn vật muôn loài thay áo mới nhưng lòng người thì vẫn cũ, vẫn chẳng đổi thay,
(Xem: 1632)
Nếu mùa xuân là cái gì tươi đẹp nhất thì đó phải là vẻ đẹp từ sự biết ơn trong tâm hồn của mỗi người.
(Xem: 2251)
Mùa xuân hải ngoại trời lạnh lắm nhưng lòng người ấm áp vì nhớ về những mùa xuân dân tộc.
(Xem: 1597)
Không biết từ khi nào, có lẽ từ lâu lắm rồi, trà là một trong những thứ không thể thiếu trong các gia đình của người phương Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng.
(Xem: 1875)
Mùa xuân là mùa khởi đầu năm mới. Năm mới thường mở đầu bằng một mùa xuân mơ ước đầy khát vọng, hoài bão.
(Xem: 1769)
Bóng chiều ngã dài, trên sườn đồi, vài sợi mây xanh vươn vấn, tiếc nuối dư hương nhạt nhòa, chạnh lòng băng giá khách tha phương tìm về cố quốc
(Xem: 1828)
Đạo đức học Phật giáo là một hệ giá trị bền vững cùng năm tháng, xuất phát từ tuệ nhãn của bậc Thiện Thệ hơn hai nghìn sáu trăm năm trước.
(Xem: 1672)
Trong Trung luận hay Trung đạo luận hay Trung quán luận (Mulamadhyamakakarika, Căn bản Trung luận tụng), bản văn căn bản của ngài Long Thọ,
(Xem: 2412)
Ngày Tết cũng là dịp để những người con Phật suy nghiệm về lẽ vô thường biến dịch của vạn pháp và của chính thân phận mình.
(Xem: 2124)
Sự tha thứ chữa lành vết thương cho người mà bạn cho là đã xúc phạm và chính bạn, người bị xúc phạm.
(Xem: 2071)
Cuối thế kỉ XIX cờ Phật giáo được thiết kế nhằm tượng trưngđại diện một cách thống nhất cho Phật giáo và được Phật tử trên khắp thế giới sử dụng.
(Xem: 1877)
Ngôn ngữ là hình thái biểu đạt ý tưởng.Tùy mỗi chủng loại có một âm ngữ riêng; âm ngữ của con người thể hiện qua ngôn ngữ ...
(Xem: 2229)
Chúng ta thường đấu tranh với việc chọn món quà nào là hoàn hảo. Chúng ta tập trung sự chú ý của mình chủ yếu vào các đối tượng và sự kiện.
(Xem: 1800)
Thực hành Tịnh độđơn giản. Cách tu tập này không yêu cầu hành giả phải được học về tư tưởng Phật giáo hoặc đặc biệt về giới, về thiền hoặc kỷ luật tâm linh.
(Xem: 1921)
Một trong những kết luậnPhật giáo và các nhà khoa học đều đồng ý là không có đấng tạo hóa.
(Xem: 2158)
Thiền pháp tỉnh thức (mindfulness meditation) đang trở thành một trong các khuynh hướng ưu thắng của nhiều lĩnh vực hoạt động tại Hoa Kỳ và nhiều nước khác.
(Xem: 1685)
Đức Phật giảng dạy tám mươi bốn ngàn pháp môn, mỗi pháp môn phù hợp cho trình độcăn cơ của chúng sinh tiếp nhận,
(Xem: 1948)
Niềm tin là nguồn nguyên liệu cần thiết cho sự sống. Không có niềm tin, con người ta sẽ chết, hoặc sống gần như chết
(Xem: 1944)
Tu, rốt cuộc là để nhìn vạn pháp đúng như chính nó.
(Xem: 2156)
Niệm Phật là một pháp môn dễ học, dễ tu, được đức Phật dạy rất sớm, rất nhiều trong các kinh, từ kinh Nikaya hệ thống ngôn ngữ Pali của Phật giáo Nguyên thủy.
(Xem: 1929)
Bài kinh “Bốn Hạng Người Hiện Hữu Ở Đời” được ghi lại trong Tăng Chi Bộ Kinh I, chương 4, phẩm Bhandagàma, phần Thuận Dòng.
(Xem: 1769)
Bài viết này được biên soạn bởi có nhiều Tỳ khưu hỏi tôi về những giới luật sử dụng tiền bạc được tìm thấy trong vinaya (Tạng Luật).
(Xem: 1752)
Đạo Phật có phải là một tôn giáo không là một câu hỏi không mới nhưng không cũ đối với những ai đến với đạo Phật chỉ bằng con đường tín ngưỡng đơn thuần.
(Xem: 1761)
Đi chùa lễ Phật, cầu gia hộ. Trước buổi học Phật pháp, hay lễ hội Phật sự, nghi thức đầu tiên đều là “niệm Phật cầu gia hộ”.
(Xem: 1873)
Đúng là nếu giữ được năm giới thì cơ bản sẽ không rơi vào ba đường ác và được tái sinh ít nhất là vào cõi người,
(Xem: 2163)
Trong kinh Thừa tự pháp, đức Phật dạy hàng đệ tử nên thừa tự giáo pháp của Ngài chứ không nên thừa tự tài vật của Ngài.
(Xem: 1715)
Trong các kinh Bát nhã ba la mật giảng nói nhiều về tánh Không với những phẩm tính như vô tự tánh, vô sở hữu, bất khả đắc, vô sanh, như huyễn…
(Xem: 1684)
Phật phápgiáo lý của Đức Phật. Gọi là giáo lý tức là nhằm chỉ đến giáo dục với tất cả các phạm trù
(Xem: 2252)
Con người vĩ đại đó, tấm lòng trí tuệ đó, phương pháp giáo dục siêu việt đó của đức Phật đã khiến muôn nghìn trái tim của nhân loại hướng về Ngài
(Xem: 1956)
Định hướng tư tưởng là một vấn đề vô cùng quan trọng trong đời sống sinh hoạt của con người.
(Xem: 1783)
Ngược dòng lịch sử hơn 2.500 năm về trước ở xứ Ấn Độ, trước khi Đức Phật ra đời, nơi đây đã đơm hoa kết trái nhiều hệ tư tưởng khác nhau.
(Xem: 2355)
Con người sinh ra đời, sống và lớn lên trong gia đình được ấp ủ bởi tình thương của cha mẹ, tình anh chị em, tình bà con dòng họ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant