Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Hãy Đọc Các Dòng Chữ Trong Tâm Thức Mình (bài 3 Và 4)

20 Tháng Ba 201609:31(Xem: 9439)
Hãy Đọc Các Dòng Chữ Trong Tâm Thức Mình (bài 3 Và 4)

HÃY ĐỌC CÁC DÒNG CHỮ TRONG TÂM THỨC MÌNH (BÀI 3 & 4)
Reading the Mind / Savoir lire notre esprit 

Upasika  Kee Nanayon
Hoang Phong 

Hãy Đọc Các Dòng Chữ Trong Tâm Thức Mình (bài 3 Và 4)
Upasika Kee Nanayon (1901-1979)

Lời giới thiệu của người dịch:

Dưới đây là phần tiếp theo của bài thứ 8 trong loạt bài "Phật giáo và người phụ nữ", nêu lên vị trívai trò của người phụ nữ trên dòng lịch sử phát triển của Phật giáo từ thời kỳ Đức Phật còn tại thế đến ngày nay:     

Bài 1: Phật giáo và người phụ nữ: một sự nghịch lý hay mâu thuẫn (Philippe Cornu)
Bài 2: Phụ nữ và nữ tính trong Phật giáo (Dominique Trotignon)
Bài 3: Con đường của sự quyết tâm (Ilan Dubosc)
Bài 4: Tenzin Palmo: Một nữ du-già nơi xứ tuyết (Dominique Dutet) 
Bài 5: 
Phụ nữ và Phật giáo (Gabriela Frey) 

Bài 6: Làm mẹ với tấm lòng của Phật (Jaqueline Kramer- Sanitsuda Ekachai)
Bài 7: Người nữ tu sĩ Phật giáo trong thế giới ngày nay (Ven. Karma Lekshe Tsomo)
Bài 8: Hãy đọc các dòng chữ trong tâm thức mình (Upasika Kee Nanayon)

Bài thứ 8 là phần chuyển ngữ quyển sách "Hãy đọc các dòng chữ trong tâm thức mình" (Reading the mind) của Bà Upasika Kee Nanayon, gồm 9 bài giảng ngắn. 

Bài 1: Làm thế nào để phát huy sự nhận định
Bài 2: Các cách hiểu biết khác nhau 
Bài 3: Con đường mang lại sự thăng bằng 
Bài 4: Lợi ích của sự bình thản 
Bài 5: Một khối nhựa đường
Bài 6: Sự sụp đổ của sự thật quy ước
Bài 7: Sự phức tạp của vô minh
Bài 8: Tánh Không là gì? 
Bài 9: Mở rộng con tim

Bài thứ nhất đã được chuyển ngữ và dưới đây là bài thứ hai:

Bài III
Con đường quân bình
The Balanced Waya voie de l'équilibre

            Bước vào con đường tu tập Dhamma (Đạo Pháp) mà không giữ được quân bình giữa sự tập trung (concentration/sự chú tâm) và sự quán thấy (discernement/sự nhận thức) thì quả khó tránh khỏi tình trạng bất định hướng của tâm thần. Nếu luyện tập quá nhiều về sự quán thấy thì sẽ bị tràn ngập bởi tư duy, ngược lại nếu gia tăng quá nhiều sự chú tâm thì sẽ khiến tâm thức trở nên bất động và im lìm (bị tê liệt và mất hết sự bén nhạy), không mang lại được sự hiểu biết nào cả. Do đó cần phải giữ sự quân bình giữa hai thể dạng thiền định trên đây: sự tĩnh lặng phải đi đôi với sự quán thấy sâu xa. Không nên để cho thể dạng này lấn lướt thể dạng kia (sự chú tâm mang lại sự tĩnh lặng giúp cho tri thức trở nên bén nhạy giúp mình quán thấy, thế nhưng nếu quá chú tâm vào sự quán thấy thì người hành thiền có thể "quên mất" là phải luôn duy trì sự tĩnh lặng cần thiết hầu tiếp tục "nuôi dưỡng" sự bén nhạy của sự quán thấy). Đấy là cách giúp các bạn nhìn thấy mọi sự vật một cách minh bạch suốt trên con đường luyện tập. Nếu không, các bạn sẽ vẫn còn tiếp tục bị lầm lẫn như trước đây. Chẳng qua vì các bạn quá tham lam muốn quán thấy quá nhiều thứ, tư duy do đó sẽ bị phân tán. Các bạn không còn chủ động được tâm thức mình nữa. Nhiều người thắc mắc và tự hỏi tại sao việc tu tập của mình chưa bao giờ mang lại cho mình một chút trí tuệ nào cả, hoặc là chưa kịp nhận biết được nó thì nó đã lọt ra khỏi tâm thức mình! Tư duy bung ra mọi hướng và các điểm chuẩn đều biến mất.

            Trái lại trong quá trình luyện tập và ngay trong lúc đang hành thiền, các bạn phải tìm mọi cách mang lại sự tĩnh lặng cho tâm thức (không để tư duy và xúc cảm dấy lên). Một khi tâm thức đã thật sự lắng xuống thì tự nhiên nó sẽ có xu hướng lưu lại trong sự tĩnh lặng ấy, hoặc đôi khi nó cũng có thể trở nên trống không, tức không có một sự hiểu biết nào hiện lên với nó. Trong tình trạng đó, dù tâm thức trở nên bình lặng, buông xả, thư giãn trong một khoản thời gian nào đó, thế nhưng tuyệt nhiên cũng sẽ không có một sự quán thấy nào hiện ra cả. Chỉ khi nào các bạn phát huy được sự tập trung (chú tâm) đi kèm với sự quán thấy, thì khi đó việc thiền định của các bạn mới có thể mang lại kết quả. Các bạn sẽ quán thấy mọi sự vật ở cấp bậc sâu kín nhất của chúng và nhờ đó các bạn mới có thể buông bỏ được chúng. Nếu các bạn có xu hướng tập trung quá nhiều vào sự quán thấy, hoặc quá nhiều vào sự tĩnh lặng, thì các bạn sẽ không thể buông bỏ được (nếu còn ở trong tình trạng tĩnh lặng thì không có sự quán thấy để mà buông bỏ, nếu bị tràn ngập bởi sự quán thấy thì sẽ thiếu sự tĩnh lặng và tập trung để nuôi dưỡng sự quán thấy đó). Tâm thức vẫn cứ tiếp tục tìm hiểu điều này hay điều kia, và bám víu vào các sự hiểu biết ấy của nó. Tiếp theo đó, nó lại tìm hiểu thêm các thứ khác nữa, và lại tiếp tục bám vào các thứ ấy. Hoặc nó cũng có thể đơn giản giữ sự im lặngbám víu vào chính sự im lặng ấy của nó.

            Giữ việc tu tập đúng theo con đường Trung Đạo (ở giữa) không phải là chuyện dễ. Nếu không vận dụng tất cả sức mạnh quán xét của mình thì khó mà thành công. Tâm thức không ngừng bị vướng mắc vào mọi sự vật, lúc thì chúng có vẻ thích thú, lúc thì khó chịu, chẳng qua vì tâm thức không quán xét cẩn thận những gì đang xảy ra. Con đường đó không phải là con đường giúp chúng ta buông bỏ, mà là con đường đầy cạm bẫy, khiến chúng ta tiếp tục bám víu vào mọi sự vật. Nếu không ý thức được tình trạng đang bị vướng mắcbám víu của mình thì các bạn vẫn còn tiếp tục sống với tất cả sự điền rồ và đần độn của mình. Do đó các bạn phải tiếp tục tập trung sự suy tư của mình cho đến khi nào quán thấy thật minh bạch được tính cách vô thường, khổ đau và vô thực thể (vô ngã, không có cái tôi) của mọi sự vật. Không một chút nghi ngờ nào cả, đấy là cách duy nhất có thể làm chấm dứt mọi sự căng thẳng và khổ đau.

 

Bài IV
 Lợi ích của sự bình thản
The Uses of Equaminity / Les bienfaits de l' équanimité

 

            Các cảm nhận của tâm thức rất tinh tếbiến đổi không ngừng. Nhiều lúc các sự đam mê hay giận dữ vụt bùng lên, thế nhưng không thấy các xúc cảm đó liên hệ gì với các sự tiếp xúc giác cảm, và nguyên nhân chỉ đơn giảntính khí của mình. Chẳng hạn có những lúc tâm thức đang trong thể dạng "bình thường", thế nhưng "bỗng dưng" nó cảm thấy bực bội, hoặc cứ muốn suy nghĩ về một điều gì đó, hoặc bị lôi cuốn bởi các cảm tính đau đớn, thích thú hay một sự thanh thản nào đó (đây là các tác động của nghiệp quá khứ hiện lên với mình một cách kín đáo). Chúng ta phải tìm hiểu thật cẩn thận cả ba thể dạng cảm tính trên đây để nhận thấy tình trạng xao động, biến đổicăng thẳng (stressful) thường xuyên của chúng, hầu ý thức được là không nên để cho tâm thức bị lôi kéo theo với chúng. Các sự vật lôi cuốn chúng ta bằng nhiều cách vô cùng tinh tế và rất khó nhận biết. Chúng ngăn chận không cho chúng ta quán thấy được mọi sự vật đúng là như thế, bởi vì sự thu hút ấy nhất thiết chỉ đơn thuần là một sự lường gạt. Mỗi khi đắm mình trong các cảm tính thích thú thì cũng không phải là quá khó để nhận biết được điều đó, thế nhưng khi lắng vào sự bình thản (equanimity, chữ này thường được các kinh sách gốc Hán ngữ dịch không sát nghĩa là "xả" với ý nghĩa là "buông xả") thì sẽ khó nhận biết hơn nhiều, bởi vì tâm thức không ý thức được là nó đang ở trong tình trạng đó. Thế nhưng sự bình thản vô thức ấy sẽ ngăn chận không cho chúng ta trông thấy bất cứ gì một cách minh bạch được.    

            Vậy chúng ta hãy chú tâm quán xét các cảm tính (feelings) đơn giản như là các cảm tính và gạt ra ngoài tâm thức mọi sự bám víu, kể cả thể dạng bình thản cũng vậy  Mỗi khi cảm nhận được một sự im lặng (với tư cách là một cảm tính/a feeling), thì phải lợi dụng ngay lúc đó, tức là lúc mà tâm thức đang khép lại (thu lại), lắng xuống và không còn bị phân tán nữa, hầu biến sự bình thản đó trở thành một cơ sở giúp mình nhận biết được rõ ràng hơn thế nào là vô thường, sự bất toại nguyệntính cáchthực thể của mọi sự vật (mỗi khi một cảm tính vắng lặng hiện lên với mình, và trong lúc đó tâm thức cũng lắng xuống, không còn bị phân tán nữa, thì nên lợi dụng ngay cảm tính/feeling vắng lặng đó (samatha) như là một cơ sở, một phương tiện giúp mình cảm nhận và quán thấy (samadhi/vipassana) vô thường, khổ đau và vô ngã của mình và thế giới). Chẳng qua là vì thể dạng bình thản đó là cấp bậc lắng sâu (jhana) thứ tư trong phép thiền định, và cũng là nền tảng tối cần giúp mang lại sự quán thấy sâu xasự giải thoát. Tóm lại là phải cẩn thận không nên chỉ biết đơn giản chú tâm vào sự lắng sâu (absorption/samatha) của thiền định.

            Nếu các bạn phát huy được một thể dạng tâm thức bình thản (equanimity/samatha)  nhưng không hướng nó vào sự quán thấy sâu xa (insight/vipassana), thì đấy chỉ là một thể dạng tập trung tạm thời (tạo ra một sự thanh thản thế thôi, không đi đến đâu cả, tương tự như dọn một thửa ruộng nhưng không gieo trồng gì cả). Các bạn không nên quên mục đích của việc luyện tập thiền địnhđạt được sự hiểu biết minh bạch về vô thường (phù du và ảo giác), bất toại nguyện (khổ đau) và vô thực thể (không có cái tôi hay cái ngã) của mọi sự vật (tức là ba đặc tính của mình và thế giới). Chính đấy là cách giúp các bạn nhổ bỏ tận rễ mọi sự bám víu. Nếu tâm thức chỉ biết lắng vào sự bình thản vô thức (oblivious aquanimity/équanimité inconsciente), thì nó sẽ vẫn còn chất chứa nhiên liệu (fuel) bên trong nó; và như thế mỗi khi xảy ra một sự tiếp xúc giác cảm, thì tức khắc ngọn lửa của sự bám víu (thích thú, khó chịu, trung hòa, ghét bỏ...) sẽ bùng lên ngay. Do đó các bạn phải giữ đúng nguyên tắc mà Đức Phật đã đưa ra: tập trung tâm thức trong thể dạng lắng sâu của thiền định và sau đó là hướng sự chú tâm ấy vào mục đích mang lại sự hiểu biết minh bạch về ba đặc tính (vô thường, khổ đau và vô ngã). Phương pháp luyên tập đúng đắn nhất là không được để mình rơi vào cạm bẫy giăng ra bởi bất cứ một giai đoạn tạm thời nào cả, và nhất là dù có đạt được bất cứ gì trong nội tâm thì không nên vội xem là mình đã đạt được Giác Ngộ! Phải tiếp tục quán xét và hướng sự tập trung vào bên trong chính mình để quán xét xem còn có gì khác biến đổi trong tâm thức mình hay không, nếu có thì phải nhận biết sự bất toại nguyện (stress/căng thẳng, khổ đau) bên trong sự biến đổi đó, và cả tính cáchthực thể của sự đổi thay đó (có nghĩa là khi nào còn sự biến đổi - dù nhỏ nhoi cách mấy - hiện ra trong tâm thức, thì sẽ còn xảy ra sự bám víu, đưa đến khổ đau và sự hiện hữu của cái ngã). Nếu các bạn hiểu được bản chất của mọi sự vật đúng theo chiều hướng đó, thì tâm thức sẽ có thể vượt lên trên mọi sự cảm nhận (không bị chúng chi phốisai khiến) và nó sẽ không bị rơi vào các cạm bẫy giăng ra ở cấp bậc này hay cấp bậc kia (tức là trong cả hai thể dạng: tĩnh lặng/samatha cũng như thể dạng quán thấy/samadhi,vipassana) - và nên hiểu rằng tất cả những thứ ấy nhất thiết chỉ đơn giản là các sản phẩm tưởng tượng (matters of speculation/simple conjectures).

            Điều quan trọng là các bạn phải tạo được một sự quán thấy minh bạch. Dù cho tâm thức pha chế và tạo dựng ra đủ mọi thứ tưởng tượng trong một tình trạng hỗn loạn, nhưng các bạn phải tập trung sự chú tâm giúp mình quán thấy tất cả những thứ ấy cũng chỉ toàn là ảo giác. Và sau đó thì cứ bình thản quan sát sự biến mất tuần tự của tất cả các hiện tượng tâm thần ấy. Phải nhận thấy thật minh bạch là tất cả các sự tạo dựng tâm thần đó không có gì là thật cả. Sớm muộn chúng cũng sẽ tan biến hết. Những gì còn lại với mình là một tâm thức trống không, tức là một tâm thức giữ được sự thăng bằng của thể dạng bình thường của chính nó. Sau đó các bạn tiếp tục tập trung quan sát sự thăng bằng ấy.

            Trong quá trình quan sát sâu kín trên đây về các thứ bệnh tật của tâm thức, không phải chỉ có một cấp bậc duy nhất mà có rất nhiều cấp bậc khác nhau (thân xác có nhiều thứ bệnh, có những thứ rất nhẹ chỉ cần xoa bóp hay xức dầu là hết bệnh, nhưng cũng có những thứ bệnh trầm trọng và khó trị hơn. Tâm thức cũng thế, cũng có những thứ bệnh nhẹ, chẳng hạn như các sự lầm lẫn, hoang mang có thể nhờ suy nghĩ mà sáng ra, nhưng cũng có những thứ bấn loạn tâm thần cần đến sự chữa trị của các bác sĩ tâm thần, hoặc trầm trọng hơn phải điều trị suốt đời trong các dưỡng trí viện. Thông thường chúng ta nghĩ rằng thân xác mình rất khỏe mạnh, thế nhưng bất cứ lúc nào cũng có thể xảy ra những sự đột biến về tim mạch do các nguyên nhân âm ỉ bên trong cơ thể mình, mà bác sĩ cũng như các phương pháp thử nghiệm y khoa không phát hiện được. Đối với tâm thần cũng thế, chúng ta cảm thấy sáng suốt, sảng khoái và bình thường, thế nhưng có những sự rối loạn rất sâu kín mà mình không nhận biết được. Đôi khi cũng không cần đến sự chẩn bệnh của các bác sĩ tâm thần chúng ta cũng có thể nhận biết được tình trạng "không được khỏe" lắm của tâm thức mình. Chẳng hạn như các hình ảnh, sự kiện, xúc cảm..., hiện ra trong các giấc mơ là những gì phản ảnh tình trạng sức khỏe của tâm thức mình. Những gì mình "trông thấy" và nhớ lại được từ trong các giấc mơ là kết quả phát sinh từ sự phối hợp vô cùng phức tạp giữa nghiệp (trí nhớ), các tạo tác tâm thần liên quan đến các cảm nhận và biến cố trong cuộc sống thường nhật. Chúng biến dạng dưới những hình ảnh hiện ra trong giấc mơ mà mình không hiểu gì cả, nhưng thường là chúng mang lại cho mình các xúc cảm sợ hãi, hoang mang và đau buồn, và đó chính là tình trạng "không được khỏe mạnh" của tâm thức mình. Trong lúc tỉnh chúng ta không nhận biết được các sự bấn loạn đó trong tâm thức, bởi vì chúng bị che lấp bởi sự tràn ngập của giác cảm phát sinh từ sự tiếp xúc của các giác quan với thế giới bên ngoài. Đức Phật là một vị Lương Y, Ngài trông thấy được tất cả những thứ bệnh tật ấy bên trong tâm thần của chúng sinh và đưa ra các phương pháp thích nghi giúp mỗi chúng sinh tự chữa trị các bệnh tật ấy cho chính mính). Ngay trong trường hợp nếu thỉnh thoảng thực hiện được một vài sự quán thấy sâu xa thì các bạn cũng không nên tự mãn và dừng lại, không nên cảm thấy thích thú vì cho rằng mình đã quán thấy được những điều mà trước đây mình chưa bao giờ thực hiện được. Hãy tiếp tục suy tư về quy luật vô thường đối với tất cả mọi sự vật, nhưng không được bám víu vào các sự khám phá ấy của mình, và rồi dần dần các bạn sẽ mang lại cho mình những sự hiểu biết khác sâu xa hơn cả trước đây rất nhiều.

            Tóm lại, các bạn nên tiếp tục giữ sự tập trung cho đến khi nào tâm thức tự nó dừng lại, có nghĩa là cho đến khi nào đạt được thể dạng hòa nhập gọi là sự "tinh khiết của thể dạng chú tâm và bình thản" (tập trung tâm thức có nghĩa là tâm thức vẫn còn phải cố gắng, trong khi đó sự quán thấy tối thượng - hay "thể dạng tinh khiết của sự chú tâm" - sẽ là một thể dạng  yên tĩnh và vắng lặng tuyệt đối, không cần đến một sự cố gắng nào cả). Hãy cảm nhận sự tinh khiết của thể dạng tỉnh thức (mindfulness) đó. Sự cảm nhận ấy cũng tương tự như sự cảm nhận đối với thể dạng bình thản (equanimity) trước đây: đó là kết quả mang lại từ sự tập trung cao độ hướng sâu vào tâm thức, giúp mình hiểu biết được chính nó. Tóm lại, hãy tập trung tâm thức cho đến khi nào thực hiện được thể dạng bình thản (equanimity/samatha) và tiếp theo đó thì chuyển sang sự chiêm nghiệm (suy tư/contemplate/samadhi, vipassana). Đấy là cách giúp các bạn phát huy khả năng quán thấy bản chất của mọi sự vật.

 

Bures-Sur-Yvette, 19.03.16
Hoang Phong


Xem thêm sách của:Hãy Đọc Các Dòng Chữ Trong Tâm Thức Mình (bài 3 Và 4) -1
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2065)
Sống ở đời ai cũng mong cầu được hạnh phúc. Hạnh phúc là gì?
(Xem: 2212)
Ở đời bất cứ sự kiện nào xảy ra cũng có nguyên do của nó. Như bài kinh “Bát Đại Nhân Giác” xuất hiện trên thế gian này cũng không ngoại lệ.
(Xem: 1711)
Hai chữ vô thường rất quen thuộc với mọi người chúng ta, trong đời sống hàng ngày ai ai cũng nghe và nói.
(Xem: 2021)
Tư tưởng nhân quả Phật giáotư tưởng nổi bật trong nhân sinh quan Phật giáo.
(Xem: 1738)
Chúng ta đang chứng kiến những bất ổn xã hội hay thiên tai trên toàn thế giới, Việt Nam không phải là ngoại lệ khi gần đây
(Xem: 1723)
Sống phải có niềm tin, nhưng đừng tin quá vào một người, dù người đó là ai, có địa vị như thế nào trong xã hội.
(Xem: 1894)
Đức Phật đã dạy cho hàng đệ tử về mối tương quan và lợi ích của việc thực hành bốn nhiếp pháp trong Kinh Tăng Chi Bộ,
(Xem: 1905)
Đức Phật Thích Ca Như Lai của chúng ta, lúc mới phát tâm, đã vì ta mà tu Bồ tát đạo, trải qua vô lượng kiếp chịu đủ các thứ khổ cực.
(Xem: 1558)
“Không làm các việc ác Siêng làm các việc lành Thanh tịnh hoá tâm ý…”
(Xem: 1730)
Việc khấn nguyện, cầu nguyện là một vấn đề tâm linh rất phổ biến của tín đồ mọi tôn giáo và không cứ gì mùa xuân mà việc khấn nguyện...
(Xem: 2070)
Hồi sáng, lúc đi thiền hành ở Xóm Thượng, tôi đi xuôi xuống chùa Sơn Hạ. Mỗi bước chân giúp tôi tiếp xúc với sự sống rất sâu sắc
(Xem: 1823)
Chế độ ăn kiêng của bạn có thể giúp dự đoán bạn sống được bao lâu.
(Xem: 2386)
Đức Phật dạy “Thân người khó được, Phật pháp khó nghe”. Biết điều này, khi được là con Phật, ta sẽ thấy mình thật hạnh phúc vì ...
(Xem: 1715)
Không ít Phật tử đến chùa quy y, học Phật pháp, công quả, tham gia các hoạt động Phật sự, thường theo cảm tình đối với người Thầy ở nơi mình đến hơn là...
(Xem: 1717)
Giữ năm giới là khó, giữ gìn một cách hoàn hảo càng khó hơn. Muốn giữ giới hoàn hảo, trước phải học và thông hiểu về mỗi giới
(Xem: 1674)
Đóng cửa các nẻo đường xấu ác để chúng sanh không bị sa rớt xuống các nẻo địa ngục, quỷ đói, súc sanh.
(Xem: 2124)
“Chớ bảo xuân tàn, hoa rụng hết. Đêm qua sân trước một cành mai”
(Xem: 1949)
Người ta nói uống trà là thú vui tao nhã, thanh cao. Thú vui cuộc đời nói chung có hai loại là thanh cao và không thanh cao.
(Xem: 2087)
Mỗi khi mùa xuân mới về là trời đất lại thanh tân, vạn vật muôn loài thay áo mới nhưng lòng người thì vẫn cũ, vẫn chẳng đổi thay,
(Xem: 1630)
Nếu mùa xuân là cái gì tươi đẹp nhất thì đó phải là vẻ đẹp từ sự biết ơn trong tâm hồn của mỗi người.
(Xem: 2246)
Mùa xuân hải ngoại trời lạnh lắm nhưng lòng người ấm áp vì nhớ về những mùa xuân dân tộc.
(Xem: 1595)
Không biết từ khi nào, có lẽ từ lâu lắm rồi, trà là một trong những thứ không thể thiếu trong các gia đình của người phương Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng.
(Xem: 1873)
Mùa xuân là mùa khởi đầu năm mới. Năm mới thường mở đầu bằng một mùa xuân mơ ước đầy khát vọng, hoài bão.
(Xem: 1758)
Bóng chiều ngã dài, trên sườn đồi, vài sợi mây xanh vươn vấn, tiếc nuối dư hương nhạt nhòa, chạnh lòng băng giá khách tha phương tìm về cố quốc
(Xem: 1823)
Đạo đức học Phật giáo là một hệ giá trị bền vững cùng năm tháng, xuất phát từ tuệ nhãn của bậc Thiện Thệ hơn hai nghìn sáu trăm năm trước.
(Xem: 1669)
Trong Trung luận hay Trung đạo luận hay Trung quán luận (Mulamadhyamakakarika, Căn bản Trung luận tụng), bản văn căn bản của ngài Long Thọ,
(Xem: 2402)
Ngày Tết cũng là dịp để những người con Phật suy nghiệm về lẽ vô thường biến dịch của vạn pháp và của chính thân phận mình.
(Xem: 2119)
Sự tha thứ chữa lành vết thương cho người mà bạn cho là đã xúc phạm và chính bạn, người bị xúc phạm.
(Xem: 2067)
Cuối thế kỉ XIX cờ Phật giáo được thiết kế nhằm tượng trưngđại diện một cách thống nhất cho Phật giáo và được Phật tử trên khắp thế giới sử dụng.
(Xem: 1869)
Ngôn ngữ là hình thái biểu đạt ý tưởng.Tùy mỗi chủng loại có một âm ngữ riêng; âm ngữ của con người thể hiện qua ngôn ngữ ...
(Xem: 2219)
Chúng ta thường đấu tranh với việc chọn món quà nào là hoàn hảo. Chúng ta tập trung sự chú ý của mình chủ yếu vào các đối tượng và sự kiện.
(Xem: 1794)
Thực hành Tịnh độđơn giản. Cách tu tập này không yêu cầu hành giả phải được học về tư tưởng Phật giáo hoặc đặc biệt về giới, về thiền hoặc kỷ luật tâm linh.
(Xem: 1916)
Một trong những kết luậnPhật giáo và các nhà khoa học đều đồng ý là không có đấng tạo hóa.
(Xem: 2151)
Thiền pháp tỉnh thức (mindfulness meditation) đang trở thành một trong các khuynh hướng ưu thắng của nhiều lĩnh vực hoạt động tại Hoa Kỳ và nhiều nước khác.
(Xem: 1681)
Đức Phật giảng dạy tám mươi bốn ngàn pháp môn, mỗi pháp môn phù hợp cho trình độcăn cơ của chúng sinh tiếp nhận,
(Xem: 1936)
Niềm tin là nguồn nguyên liệu cần thiết cho sự sống. Không có niềm tin, con người ta sẽ chết, hoặc sống gần như chết
(Xem: 1932)
Tu, rốt cuộc là để nhìn vạn pháp đúng như chính nó.
(Xem: 2150)
Niệm Phật là một pháp môn dễ học, dễ tu, được đức Phật dạy rất sớm, rất nhiều trong các kinh, từ kinh Nikaya hệ thống ngôn ngữ Pali của Phật giáo Nguyên thủy.
(Xem: 1926)
Bài kinh “Bốn Hạng Người Hiện Hữu Ở Đời” được ghi lại trong Tăng Chi Bộ Kinh I, chương 4, phẩm Bhandagàma, phần Thuận Dòng.
(Xem: 1766)
Bài viết này được biên soạn bởi có nhiều Tỳ khưu hỏi tôi về những giới luật sử dụng tiền bạc được tìm thấy trong vinaya (Tạng Luật).
(Xem: 1749)
Đạo Phật có phải là một tôn giáo không là một câu hỏi không mới nhưng không cũ đối với những ai đến với đạo Phật chỉ bằng con đường tín ngưỡng đơn thuần.
(Xem: 1757)
Đi chùa lễ Phật, cầu gia hộ. Trước buổi học Phật pháp, hay lễ hội Phật sự, nghi thức đầu tiên đều là “niệm Phật cầu gia hộ”.
(Xem: 1867)
Đúng là nếu giữ được năm giới thì cơ bản sẽ không rơi vào ba đường ác và được tái sinh ít nhất là vào cõi người,
(Xem: 2157)
Trong kinh Thừa tự pháp, đức Phật dạy hàng đệ tử nên thừa tự giáo pháp của Ngài chứ không nên thừa tự tài vật của Ngài.
(Xem: 1710)
Trong các kinh Bát nhã ba la mật giảng nói nhiều về tánh Không với những phẩm tính như vô tự tánh, vô sở hữu, bất khả đắc, vô sanh, như huyễn…
(Xem: 1683)
Phật phápgiáo lý của Đức Phật. Gọi là giáo lý tức là nhằm chỉ đến giáo dục với tất cả các phạm trù
(Xem: 2248)
Con người vĩ đại đó, tấm lòng trí tuệ đó, phương pháp giáo dục siêu việt đó của đức Phật đã khiến muôn nghìn trái tim của nhân loại hướng về Ngài
(Xem: 1956)
Định hướng tư tưởng là một vấn đề vô cùng quan trọng trong đời sống sinh hoạt của con người.
(Xem: 1775)
Ngược dòng lịch sử hơn 2.500 năm về trước ở xứ Ấn Độ, trước khi Đức Phật ra đời, nơi đây đã đơm hoa kết trái nhiều hệ tư tưởng khác nhau.
(Xem: 2352)
Con người sinh ra đời, sống và lớn lên trong gia đình được ấp ủ bởi tình thương của cha mẹ, tình anh chị em, tình bà con dòng họ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant