Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ai Hiểu Rõ Vô Thường Là Người Biết Sống Hạnh Phúc (song Ngữ)

25 Tháng Ba 201614:55(Xem: 9627)
Ai Hiểu Rõ Vô Thường Là Người Biết Sống Hạnh Phúc (song Ngữ)

AI HIỂU RÕ VÔ THƯỜNG
LÀ NGƯỜI BIẾT SỐNG HẠNH PHÚC
Câu Chuyện Về Sư Cô Patācārā, Kệ 113 - Kho Báu Sự Thật, Kinh Pháp Cú 

Minh Họa - Weragoda Sarada Maha Thero - Chuyển Ngữ: Nguyễn Văn Tiến
Hình Vẽ: P. Wickramanayaka - Source-Nguồn: www.buddhanet.net
(Who Knows Reality Is Great - The Story Of Nun Patācārā, Verse 113 - Treasury Of Truth, Illustrated Dhammapada - Weragoda Sarada Maha Thero - Illustrations by Mr. P. Wickramanayaka)

Ai Hiểu Rõ Vô Thường Là Người Biết Sống Hạnh Phúc (song Ngữ)


BÀI KỆ 113:

113. Yo ca vassasataṃ jīve
apassaṃ udayabbayaṃ
ekā’haṃ jīvitaṃ seyyo
passato udayabbayaṃ. (8:14)

Người sống được một-trăm-năm
mà không hiểu-rõ cuộc-đời là vô-thường và sinh-diệt,
thì không tốt-đẹp cho bằng người chỉ sống một-ngày
mà hiểu-rõ cuộc-đời là vô-thường và sinh-diệt.

Trong khi cư trú tại Tu Viện Kỳ Viên (Jetavana), Đức Phật đã nói bài kệ nầy, về sư cô Patācārā.

Patācārā là con gái của một người đàn ông giàu ở Sāvatthi. Cô rất xinh đẹp và cô được canh-phòng rất nghiêm ngặt bởi cha mẹ cô. Tuy nhiên một ngày kia, cô chạy-trốn cùng với người-yêu là một thanh niên trẻ, và cũng là người phục dịch của gia đình cô, rồi cô đến sống trong một ngôi làng, để làm vợ anh người-yêu nghèo nầy. Sau đó, cô mang thai và khi thời-điểm sinh-đẻ đến gần, cô xin phép chồng cho cô trở về nhà bố mẹ cô ở Sāvatthi, tuy nhiên, chồng cô không tán-thành. Vì thế, một ngày kia, trong khi chồng cô đi vắng, cô bắt-đầu chuyến đi trở về nhà bố mẹ cô. Chồng cô đã chạy theo cô, và bắt kịp cô trên đường đi, rồi năn-nỉ cô quay trở lại với anh; nhưng cô từ chối. Ngay lúc ấy, thời điểm sinh-nở của cô lại quá cận-kề, nên cô đã sinh ra một bé trai trong một bụi cây. Sau khi con trai cô ra đời, cô trở về nhà với chồng.

Sau đó, một lần nữa cô lại mang thai, và khi thời-điểm sinh-đẻ đến gần, cô dẫn theo con trai, và cô lại bắt đầu chuyến đi về nhà bố mẹ cô ở Sāvatthi. Chồng cô lại chạy theo cô, và bắt kịp cô trên đường đi; tuy nhiên, thời điểm sinh-nở của cô quá cận-kề, và lúc nầy trời đang mưa rất lớn. Chồng cô đi tìm một nơi thích-hợp để cô sinh-đẻ, và trong khi anh đang dọn dẹp sạch sẽ một khoảng đất, anh bị rắn độc cắn, và anh chết ngay lập tức. Patācārā đợi tin chồng, và trong khi chờ đợi chồng trở lại, cô đã sinh ra một bé trai (thứ nhì).

Khi trời sáng, cô đi tìm chồng, nhưng cô chỉ thấy xác chết của chồng. Cô tự nói với chính mình là chồng cô đã chết bởi vì cô, rồi cô tiếp tục chuyến đi về nhà bố mẹ mình. Bởi vì mưa suốt đêm hôm trước, nên dòng sông Aciravati như cơn nước lũ; vì thế, cô không thể bồng-bế cả hai đứa con trai cô qua sông được. Cô đặt đứa con trai-lớn ở bờ sông bên nầy, rồi cô vượt dòng nước mang theo đứa con trai sơ-sinh một-ngày tuổi, rồi cô đặt con sơ-sinh ở bờ sông bên kia. Sau đó, cô đi ngược trở lại với đứa con trai lớn. Trong khi cô hãy còn đang ở giữa dòng sông, có một con chim ưng lớn bay lượn ngay trên đầu đứa con trai sơ-sinh vì nó tưởng nhầm là miếng thịt. Cô la hét với mục-đích làm con chim ưng kinh hãi bay đi, tuy nhiên, tất cả trong vô-vọng; con chim ưng đã cặp lấy, và mang đứa nhỏ bay đi. Trong khi đó, đứa con trai lớn nghe tiếng mẹ la-hét từ giữa dòng sông, nên bé tưởng mẹ gọi bé chạy đến gần mẹ. Vì thế, đứa con trai lớn bước vào dòng nước tiến về phía mẹ, và bé bị dòng nước mạnh mẽ cuốn phăng đi. Như thế, Patācārā đã mất cả hai đứa con trai, cùng với chồng mình. Vì vậy, cô khóc ầm ĩ, rồi than thở, "Đứa con trai sơ-sinh thì bị con chim ưng cắp lấy bay đi, đứa con trai lớn thì bị dòng nước cuốn đi, chồng tôi thì bị rắn độc cắn chết!"

Sau đó, cô nhìn thấy một người đàn ông quen từ Sāvatthi, và cô than khóc rồi hỏi thăm ông về bố mẹ cô. Ông trả lời cô rằng, vì cơn bão dữ dội đã xảy ra ở Sāvatthi đêm hôm trước, căn nhà của bố mẹ cô bị sập, nên cả bố mẹ cô, cùng với ba người anh em của cô, đã chết, và họ đã được đưa lên giàn thiêu để hỏa táng. Khi nghe song tin-tức bi thảm nầy, Patācārā bị điên lên ngay lập tức. Cô thậm chí không còn nhận biết là quần áo cô bị tuột ra, và cô gần như đang trần-truồng. Cô chạy ra ngoài đường phố, và cô la hét ầm lên, "Tôi là một người đau khổ!"

Trong khi đó, Đức Phật đang giảng phápTu Viện Kỳ Viên (Jetavana), ngài nhìn thấy Patācārā từ xa; ngài biết trước rằng cô sẽ đến tu viện. Đám đông nhìn thấy cô đến, và họ cố gắng ngăn cô lại, rồi họ nói rằng "Đừng cho người đàn bà điên nầy vào." Tuy nhiên, Đức Phật nói với họ rằng, đừng nên ngăn cản cô. Khi Patācārā đến đủ gần để nghe được tiếng nói của Đức Phật, ngài nói cô phải cẩn thận, và cô cần giữ bình tĩnh. Sau đó, cô nhận ra rằng cô đã không mặc váy, và cô xấu hổ ngồi xuống. Một người đưa cô mảnh vải, rồi cô quấn lên người. Lúc đó, cô kể chuyện cho Đức Phật nghe là cô đã mất hai người con trai, mất chồng, mất anh em, và mất bố mẹ như thế nào. Sau đó, cô trở thành một sư cô, và cô đã đạt đến sự giải thoát.

GIẢI THÍCH BÀI KỆ 113 TỪ TIẾNG PALI:

udayabbayaṃ apassaṃ yo ca vassasataṃ jīve (tato) udayabbayaṃ
passato kusīto hīnavīriyo ekāhaṃ jīvitaṃ seyyo

udayabbayaṃ: sự gia tăng và sự suy giảm; apassaṃ: không nhìn thấy; yo ca: một người (cá nhân); vassasataṃ: một trăm năm; jive: đã sống được; udayabbayaṃ: sự phát sinh và sự biến mất; passato: người mà nhận thấy; ekāhaṃ: chỉ một ngày; jīvitaṃ: cuộc sống; seyyo: là cao quý

Người nào sống chỉ có một-ngày mà hiểu-rõ sự phát-sinh và sự hoại-diệt của mọi-vật, thì cao-quý hơn và tốt-đẹp hơn là, người sống được một-trăm-năm mà không hiểu-rõ quá-trình của sự phát-sinh và sự hoại-diệt của mọi-vật.

Bài kệ 113 trong Kinh Pháp Cú nầy, đã được anh Tâm Minh Ngô Tằng Giao chuyển dịch thành thơ như sau:

(113) Trăm năm sống chẳng nhận ra. Pháp kia sinh diệt. Thật là uổng thay! Chẳng bằng sống chỉ một ngày. Mà hay vạn vật chốn này giả thôi. Vô thường, tạm bợ, nổi trôi. Sinh ra rồi diệt, diệt rồi lại sinh.

BÌNH LUẬN:

udayabbayaṃ: người (được sinh ra) hiểu-biết hoàn-toàn về năm uẩn (panca khanda): (1) hình-tướng (sắc); (2) cảm-giác (thọ); (3) sự nhận-biết (tưởng); (4) hành-động của tâm-thức (hành); (5) cái-biết (thức). 

Source-Nguồn: http://www.buddhanet.net/pdf_file/dhammapadatxt1.pdf

SHORT TITLE:

The Story Of Nun Patācārā, Verse 113, Treasury Of Truth

FULL TITLE:

Who Knows Reality Is Great - The Story Of Nun Patācārā, Verse 113 - Treasury Of Truth, Illustrated Dhammapada - Weragoda Sarada Maha Thero - Illustrations by Mr. P. Wickramanayaka - Source-Nguồn: www.buddhanet.net

VERSE 113:

113. Yo ca vassasataṃ jīve
apassaṃ udayabbayaṃ
ekā’haṃ jīvitaṃ seyyo
passato udayabbayaṃ. (8:14)

Though one should live a hundred years
not seeing rise and fall,
yet better is life for a single day
seeing rise and fall.

While residing at the Jetavana Monastery, the Buddha spoke this verse, with reference to Patācārā.

Patācārā was the daughter of a rich man from Sāvatthi. She was very beautiful and was guarded very strictly by her parents. But one day, she eloped with a young male attendant of the family and went to live in a village, as a poor man’s wife. In due course she became pregnant and as the time for confinement drew near, she asked permission from her husband to return to her parents in Sāvatthi, but her husband discouraged her. So, one day, while her husband was away, she set out for the home of her parents. He followed her and caught up with her on the way and pleaded with her to return with him; but she refused. It so happened that as her time was drawing so near, she had to give birth to a son in one of the bushes. After the birth of her son she returned home with her husband.

Then, she was again with child and as the time for confinement drew near, taking her son with her, she again set out for the home of her parents in Sāvatthi. Her husband followed her and caught up with her on the way; but her time for delivery was coming on very fast and it was also raining hard. The husband looked for a suitable place for confinement and while he was clearing a little patch of land, he was bitten by a poisonous snake, and died instantaneously. Patācārā waited for her husband, and while waiting for his return she gave birth to her second son.

In the morning, she searched for her husband, but only found his dead body. Saying to herself that her husband died on account of her, she continued on her way to her parents. Because it had rained incessantly the whole night, the Aciravati River was in spate; so it was not possible for her to cross the river carrying both her sons. Leaving the elder boy on this side of the river, she crossed the stream with her day-old son and left him on the other bank. She then came back for the elder boy. While she was still in the middle of the river, a large hawk hovered over the younger child taking it for a piece of meat. She shouted to frighten away the bird, but it was all in vain; the child was carried away by the hawk. Meanwhile, the elder boy heard his mother shouting from the middle of the stream and thought she was calling out to him to come to her. So he entered the stream to go to his mother, and was carried away by the strong current. Thus Patācārā lost her two sons as well as her husband. So she wept and lamented loudly, “A son is carried away by a hawk, another son is carried away by the current, my husband is also dead, bitten by a poisonous snake!”

Then, she saw a man from Sāvatthi and she tearfully asked after her parents. The man replied that due to a violent storm in Sāvatthi the previous night, the house of her parents had fallen down and that both her parents, together with her three brothers, had died, and had been cremated on one funeral pyre. On hearing this tragic news, Patācārā went stark mad. She did not even notice that her clothes had fallen off from her and that she was half-naked. She went about the streets, shouting out, “Woe is me!”

While the Buddha was giving a discourse at the Jetavana Monastery, he saw Patācārā at a distance; so he willed that she should come to the congregation. The crowd seeing her coming tried to stop her, saying “Don’t let the mad woman come in.” But the Buddha told them not to prevent her coming in. When Patācārā was close enough to hear him, he told her to be careful and to keep calm. Then, she realized that she did not have her skirt on and shamefacedly sat down. Someone gave her a piece of cloth and she wrapped herself up in it. She then told the Buddha how she had lost her sons, her husband, her brothers and her parents. She later became a nun and attained liberation.

EXPLANATORY TRANSLATION (VERSE 113)

udayabbayaṃ apassaṃ yo ca vassasataṃ jīve (tato) udayabbayaṃ

passato kusīto hīnavīriyo ekāhaṃ jīvitaṃ seyyo

udayabbayaṃ: the rise and decline; apassaṃ: does not see; yo ca: an individual; vassasataṃ: a hundred years; jīve: were to live; udayabbayaṃ: the arising and disappearance; passato: he who sees; ekāhaṃ: even one day’s; jīvitaṃ: life; seyyo: is noble

A single day’s life of a person who perceives the arising and the disappearance of things experienced is nobler and greater than the hundred-year life-span of a person who does not perceive the process of the arising and the disappearance of things.

COMMENTARY

udayabbayaṃ: the coming into being of the five-fold totality of experience (panca khanda): (1) form; (2) sensation; (3) perception; (4) conception and (5) cognition.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2414)
“… Đêm qua trăng mọc trên đồi, thấy tâm tịch lặng không người, không ta, ai hỏi thì nhấc cành hoa, thấy gì, được thấy, đều xa muôn trùng …”
(Xem: 1841)
Tôi thường thắc mắc tại sao mình dự tính làm điều này thì có khi lại đổi sang làm chuyện khác mà mình không hề suy tính được.
(Xem: 1917)
Sống trong đời này, chúng ta thường hay nghe những ngôn từ bình dị, than thở rằng: “Trần ai - trong cõi tạm, là gì - ra sao?”
(Xem: 1787)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2160)
Khi mới vào đạo, điều đầu tiên chúng ta được dạy là không nhìn lỗi của người khác.
(Xem: 2135)
Sống ở đời ai cũng mong cầu được hạnh phúc. Hạnh phúc là gì?
(Xem: 2273)
Ở đời bất cứ sự kiện nào xảy ra cũng có nguyên do của nó. Như bài kinh “Bát Đại Nhân Giác” xuất hiện trên thế gian này cũng không ngoại lệ.
(Xem: 1768)
Hai chữ vô thường rất quen thuộc với mọi người chúng ta, trong đời sống hàng ngày ai ai cũng nghe và nói.
(Xem: 2081)
Tư tưởng nhân quả Phật giáotư tưởng nổi bật trong nhân sinh quan Phật giáo.
(Xem: 1788)
Chúng ta đang chứng kiến những bất ổn xã hội hay thiên tai trên toàn thế giới, Việt Nam không phải là ngoại lệ khi gần đây
(Xem: 1770)
Sống phải có niềm tin, nhưng đừng tin quá vào một người, dù người đó là ai, có địa vị như thế nào trong xã hội.
(Xem: 1951)
Đức Phật đã dạy cho hàng đệ tử về mối tương quan và lợi ích của việc thực hành bốn nhiếp pháp trong Kinh Tăng Chi Bộ,
(Xem: 1947)
Đức Phật Thích Ca Như Lai của chúng ta, lúc mới phát tâm, đã vì ta mà tu Bồ tát đạo, trải qua vô lượng kiếp chịu đủ các thứ khổ cực.
(Xem: 1602)
“Không làm các việc ác Siêng làm các việc lành Thanh tịnh hoá tâm ý…”
(Xem: 1785)
Việc khấn nguyện, cầu nguyện là một vấn đề tâm linh rất phổ biến của tín đồ mọi tôn giáo và không cứ gì mùa xuân mà việc khấn nguyện...
(Xem: 2118)
Hồi sáng, lúc đi thiền hành ở Xóm Thượng, tôi đi xuôi xuống chùa Sơn Hạ. Mỗi bước chân giúp tôi tiếp xúc với sự sống rất sâu sắc
(Xem: 1869)
Chế độ ăn kiêng của bạn có thể giúp dự đoán bạn sống được bao lâu.
(Xem: 2466)
Đức Phật dạy “Thân người khó được, Phật pháp khó nghe”. Biết điều này, khi được là con Phật, ta sẽ thấy mình thật hạnh phúc vì ...
(Xem: 1770)
Không ít Phật tử đến chùa quy y, học Phật pháp, công quả, tham gia các hoạt động Phật sự, thường theo cảm tình đối với người Thầy ở nơi mình đến hơn là...
(Xem: 1772)
Giữ năm giới là khó, giữ gìn một cách hoàn hảo càng khó hơn. Muốn giữ giới hoàn hảo, trước phải học và thông hiểu về mỗi giới
(Xem: 1737)
Đóng cửa các nẻo đường xấu ác để chúng sanh không bị sa rớt xuống các nẻo địa ngục, quỷ đói, súc sanh.
(Xem: 2184)
“Chớ bảo xuân tàn, hoa rụng hết. Đêm qua sân trước một cành mai”
(Xem: 2002)
Người ta nói uống trà là thú vui tao nhã, thanh cao. Thú vui cuộc đời nói chung có hai loại là thanh cao và không thanh cao.
(Xem: 2150)
Mỗi khi mùa xuân mới về là trời đất lại thanh tân, vạn vật muôn loài thay áo mới nhưng lòng người thì vẫn cũ, vẫn chẳng đổi thay,
(Xem: 1683)
Nếu mùa xuân là cái gì tươi đẹp nhất thì đó phải là vẻ đẹp từ sự biết ơn trong tâm hồn của mỗi người.
(Xem: 2301)
Mùa xuân hải ngoại trời lạnh lắm nhưng lòng người ấm áp vì nhớ về những mùa xuân dân tộc.
(Xem: 1629)
Không biết từ khi nào, có lẽ từ lâu lắm rồi, trà là một trong những thứ không thể thiếu trong các gia đình của người phương Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng.
(Xem: 1922)
Mùa xuân là mùa khởi đầu năm mới. Năm mới thường mở đầu bằng một mùa xuân mơ ước đầy khát vọng, hoài bão.
(Xem: 1822)
Bóng chiều ngã dài, trên sườn đồi, vài sợi mây xanh vươn vấn, tiếc nuối dư hương nhạt nhòa, chạnh lòng băng giá khách tha phương tìm về cố quốc
(Xem: 1872)
Đạo đức học Phật giáo là một hệ giá trị bền vững cùng năm tháng, xuất phát từ tuệ nhãn của bậc Thiện Thệ hơn hai nghìn sáu trăm năm trước.
(Xem: 1713)
Trong Trung luận hay Trung đạo luận hay Trung quán luận (Mulamadhyamakakarika, Căn bản Trung luận tụng), bản văn căn bản của ngài Long Thọ,
(Xem: 2459)
Ngày Tết cũng là dịp để những người con Phật suy nghiệm về lẽ vô thường biến dịch của vạn pháp và của chính thân phận mình.
(Xem: 2171)
Sự tha thứ chữa lành vết thương cho người mà bạn cho là đã xúc phạm và chính bạn, người bị xúc phạm.
(Xem: 2109)
Cuối thế kỉ XIX cờ Phật giáo được thiết kế nhằm tượng trưngđại diện một cách thống nhất cho Phật giáo và được Phật tử trên khắp thế giới sử dụng.
(Xem: 1920)
Ngôn ngữ là hình thái biểu đạt ý tưởng.Tùy mỗi chủng loại có một âm ngữ riêng; âm ngữ của con người thể hiện qua ngôn ngữ ...
(Xem: 2311)
Chúng ta thường đấu tranh với việc chọn món quà nào là hoàn hảo. Chúng ta tập trung sự chú ý của mình chủ yếu vào các đối tượng và sự kiện.
(Xem: 1879)
Thực hành Tịnh độđơn giản. Cách tu tập này không yêu cầu hành giả phải được học về tư tưởng Phật giáo hoặc đặc biệt về giới, về thiền hoặc kỷ luật tâm linh.
(Xem: 1962)
Một trong những kết luậnPhật giáo và các nhà khoa học đều đồng ý là không có đấng tạo hóa.
(Xem: 2204)
Thiền pháp tỉnh thức (mindfulness meditation) đang trở thành một trong các khuynh hướng ưu thắng của nhiều lĩnh vực hoạt động tại Hoa Kỳ và nhiều nước khác.
(Xem: 1723)
Đức Phật giảng dạy tám mươi bốn ngàn pháp môn, mỗi pháp môn phù hợp cho trình độcăn cơ của chúng sinh tiếp nhận,
(Xem: 1984)
Niềm tin là nguồn nguyên liệu cần thiết cho sự sống. Không có niềm tin, con người ta sẽ chết, hoặc sống gần như chết
(Xem: 1999)
Tu, rốt cuộc là để nhìn vạn pháp đúng như chính nó.
(Xem: 2211)
Niệm Phật là một pháp môn dễ học, dễ tu, được đức Phật dạy rất sớm, rất nhiều trong các kinh, từ kinh Nikaya hệ thống ngôn ngữ Pali của Phật giáo Nguyên thủy.
(Xem: 1978)
Bài kinh “Bốn Hạng Người Hiện Hữu Ở Đời” được ghi lại trong Tăng Chi Bộ Kinh I, chương 4, phẩm Bhandagàma, phần Thuận Dòng.
(Xem: 1813)
Bài viết này được biên soạn bởi có nhiều Tỳ khưu hỏi tôi về những giới luật sử dụng tiền bạc được tìm thấy trong vinaya (Tạng Luật).
(Xem: 1788)
Đạo Phật có phải là một tôn giáo không là một câu hỏi không mới nhưng không cũ đối với những ai đến với đạo Phật chỉ bằng con đường tín ngưỡng đơn thuần.
(Xem: 1815)
Đi chùa lễ Phật, cầu gia hộ. Trước buổi học Phật pháp, hay lễ hội Phật sự, nghi thức đầu tiên đều là “niệm Phật cầu gia hộ”.
(Xem: 1920)
Đúng là nếu giữ được năm giới thì cơ bản sẽ không rơi vào ba đường ác và được tái sinh ít nhất là vào cõi người,
(Xem: 2218)
Trong kinh Thừa tự pháp, đức Phật dạy hàng đệ tử nên thừa tự giáo pháp của Ngài chứ không nên thừa tự tài vật của Ngài.
(Xem: 1756)
Trong các kinh Bát nhã ba la mật giảng nói nhiều về tánh Không với những phẩm tính như vô tự tánh, vô sở hữu, bất khả đắc, vô sanh, như huyễn…
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant