Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phật Giáo Có Thể Cứu Vãn Quả Địa Cầu?

03 Tháng Năm 201611:02(Xem: 8573)
Phật Giáo Có Thể Cứu Vãn Quả Địa Cầu?

PHẬT GIÁO CÓ THỂ CỨU VÃN QUẢ ĐỊA CẦU?

David R. Loy, John Stanley
Thị Giới chuyển ngữ


Phật Giáo Có Thể Cứu Vãn Quả Địa Cầu

“Nếu chúng ta cứ tiếp tục hành hạ quả đất cách nầy, chắc chắn nền văn minh của chúng ta sẽ bị hủy diệt. Cuộc quay đầu nầy đòi hỏi sự giác ngộ, thức tỉnh. Sự giác ngộ của đức Phậttính cách cá nhân. Chúng ta cần một sự giác ngộ tập thể để làm chậm lại dòng hủy diệt nầy. Nền văn minh sẽ đi đến chỗ chấm dứt nếu chúng ta tiếp tục chìm đắm trong sự tranh đua về sức mạnh, tiếng tăm, tình dục, và lợi nhuận.”
(Thích Nhất Hạnh, The Art of Power.)

 

Chúng ta đang sống trong một cuộc khủng hoảng lớn, sự thách thức nghiêm trọng nhất mà nhân loại đang đối diện: những hậu quả về sinh thái do cộng nghiệp của chúng ta gây ra. Các nhà khoa học ngày nay đã không còn nghi ngờ rằng chính sinh hoạt của con người đang gây ra sự sụp đỗ về môi trường trong phạm vi toàn cầu. Đối với người Phật tử, sự quan tâm đến tình trạng nguy ngập về sinh thái và suy nghĩ việc áp dụng những nguồn tài nguyên truyền thống lớn lao của chúng ta trong việc cứu nguy cho địa cầu là một nhu cầu cấp bách.

Báo động toàn cầu xảy ra nhanh hơn những dự đoán của chỉ vài năm trước, đặc biệt là ở các Cực địa cầu. Năm 2007, cơ quan Intergovernmental Panel on Climate Change (IPCC) dự đoán Bắc cực có thể không còn băng mùa hè vào khoảng năm 2100. Ngày nay người ta lại thấy rằng tuyết mùa hè ở Bắc cực sẽ không còn chỉ trong vòng năm năm. Theo cùng bản báo cáo của IPCC, băng ở Hy mã lạp sơn sẽ hoàn toàn tan hết trước năm 2035. Riêng người Tây tạng rất nhạy cảm đối với vấn đề nầy. Đức Đạt Lai Lạt ma đã từng lưu ý: “Những người già nói rằng những rặng núi nầy đươc phủ với lớp tuyết dày khi họ còn trẻ và tuyết đang trở nên mỏng hơn, đó có thể là một dấu hiệu của ngày tàn của thế giới.”

Sự thay đổi khí hậu, phần lớn là do hậu quả của sự khủng hoảng sinh thái, đóng một vai trò chính trong nhiều thứ khác, trong đó có sự tuyệt chủng của một số loài chia sẻ sự sống với chúng ta trên địa cầu nầy. Edward O. Wilson, một trong những nhà sinh vật học khả kính nhất thế giới, là một trong những người dự đoán rằng một nửa cây cối và thú vật trên trái đất có thể sẽ bị tiêu diệt vào cuối thế kỷ nầy. Điều nầy có nghĩa gì đối với những vị Bồ tát, những người nguyện cứu vớt tất cả chúng sanh?

Chúng ta không muốn nghĩ về cuộc khủng hoảng sinh thái, cũng như không muốn nghĩ đến cái chết của chúng ta. Nhưng càng ngày càng có nhiều khoa học gia tin rằng sự sống còn của nền văn minh nhân loại, và có thể sự sống còn của loài người, hiện đang bị đe dọa.

Nói như triết gia về sinh thái và học giả Phật giáo Joanna Macy, phủ nhận điều đang xảy ra là mối nguy hiểm lớn nhất mà chúng ta đối diện. Trấn áp đem đến một giá cao phải trả: theo nhiều nhà tâm lý, con người trong những xã hội kỹ nghệ phát triển cao bị chứng tê liệt tâm lý, kết quả của sự tách rời khỏi thiên nhiên, không còn khả năng cảm nhận cái đẹp của thế giới – hoặc khả năng đáp ứng trước nỗi đau của nó. Điều đó tạo ra khoảng trống trong tâm thức con người. Và họ chạy theo quảng cáo, bỏ ra nhiều thời gian chạy theo những cái thay thế để lấp đầy khoảng trống đó. Nhưng họ không bao giờ cảm thấy thỏa mãncon người không bao giờ có thể có được đầy đủ về cái mà họ không thật sự mong muốn. Họ sống trong những nỗi lo sợ mơ hồ, từ đó bị ám ảnh chạy theo cuộc tranh đua về sức mạnh, danh tiếng, tình dụclợi nhuận.

Tin tức sai lạc về báo động toàn cầu cho chúng ta thấy rằng vấn đề trực tiếp nhất của chúng ta là thiếu sự tỉnh thức. Điều nầy đưa chúng ta trở về với Phật giáo. Con đường Phật giáotỉnh thức trước vọng tưởng. Nói như thầy Thích Nhất Hạnh, chúng ta cần một sự tỉnh thức tập thể trước vọng tưởng tập thể – đặc biệt đối với vọng tưởng gây nên do những mánh khóe thiện nghệ của các tập đoàn nhiên liệu hóa thạch. Chúng ta không thể chỉ dựa vào những hệ thống kinh tế và chính trị hiện tại để giải quyết vấn đề, bởi vì trong phạm vi lớn, chính chúng là vấn đề. Thay vì vậy, chúng ta cần có những chọn lựa có ý thức đặt nền tảng trên sự thức tỉnh nhiều hơn nữa về tình trạng thực sự của chúng ta.

Sự khủng hoảng sinh thái cho chúng ta thấy rõ rằng loại xã hội tiêu dùng của chúng ta ngày nay là nguồn độc hại cho môi trường. Tiếp tục như vậy sẽ là một mối đe dọa lớn cho sự sống còn của chúng ta. Để nói lên nỗi ám ảnh của chúng ta đối với chủ nghĩa tiêu dùng, chúng ta cần những cái nhìn khác nhau về tình trạng nguy ngập và tiềm năng của điều kiện con người. Những kỹ thuật mới không thể cứu vãn chúng ta trừ phi chúng được kết hợp với một thế giới quan mới. Chúng ta cần chuyển sự quan tâm của chúng ta từ lòng mong muốn phát triển không ngừng về kinh tế và kỹ thuật sang việc hàn gắng mối liên hệ giữa chúng ta với Địa cầu.

“Sự phá hoại thiên nhiên và tài nguyên thiên nhiên là kết quả của sự vô minh, tâm tham lam, và thiếu lòng tôn trọng đối với những sự vật sống trên Địa cầu. Sự thiếu lòng tôn trọng nầy còn mở rộng cho đến những hậu duệ loài người của Địa cầu, những thế hệ tương lai, những thế hệ sẽ thừa hưởng một hành tinh xuống cấp trầm trọng nếu nền hòa bình của thế giới không trở thành hiện thực và sự phá hoại môi trường thiên nhiên tiếp tục ở mức độ hiện nay… Rõ ràng đây là một thế hệ then chốt.”
Đạt Lai Lạt ma thứ Mười bốn, Collected Statements on the Environment, 2007.

Giải pháp Phật giáo đưa ra cho sự khủng hoảng môi trường không dễ thực hiện. Tuy nhiên, giáo lý về vô thường, tương duyên và vô ngã cung cấp một cái nhìn sâu sắc có giá trị vào bản chất của tình trạng nguy ngập về sinh thái của chúng ta. Thêm vào đó, việc thấy rằng lòng tham lam, ý chí bịnh hoạn, và vọng tưởng về một cái ngã tách biệt là nguồn gốc của khổ giúp chúng ta tìm thấy phương hướng cứu chữa. Về tập thể, chúng ta khổ sở với cảm giác về ngã, nó làm cho chúng ta cảm thấy không chỉ mất sự kết nối với những con người khác mà còn với quả Địa cầu.

Theo cách nói hiện đại, ý nghĩa của ngã là một cấu trúc tâm lýxã hội, không có một sự hiện hữu tự hữu hay thực tại của riêng nó. Vấn đề nền tảng của cái ngã đó là ảo tưởng về tính chất nhị nguyên. Khi chúng ta tạo dựng một cái ngã riêng biệt bên trong, thì cùng lúc, chúng ta tạo dựng một thế giới bên ngoài khác với cái “tôi.” Phật giáo dạy rằng cảm giác phân ly nầy là khổ (dukkha), bởi vì một cái ngã đánh lừa, không có thực thể, rõ ràng là không vững chãi. Để chống lại cảm giác đó, chúng ta bị ám ảnh với việc tìm cách kiểm soát hoàn cảnh của chúng ta, đưa đến những cạnh tranh về sức mạnh, tiếng tăm, tình dụclợi nhuận. Tuy nhiên, những cố gắng đó thường chỉ làm lớn mạnh thêm cảm giác phân ly.

Giải pháp của Phật giáo cho tình trạng đó không phải là loại trừ cái ngã. Điều đó không thể được vì thật sự chưa từng có một cái ngã. Thay vì vậy, nói như thầy Thích Nhất Hạnh, “Chúng ta ở đây để tỉnh thức khỏi ảo tưởng về sự riêng rẽ của chúng ta.” Khi nhận ra rằng “Tôi” là cái mà toàn bộ thế giới đang hoạt động, ngay tại đây và bây giờ, thì việc chăm sóc “người khác” sẽ trở nên tự nhiên như chăm sóc đôi chân của tôi. Nhận thức nầy là điểm nối sống động giữa trí tuệtừ bi. Sự tốt đẹp của tôi trong cứu cánh không thể tách rời với sự tốt đẹp của những người khác.

Tình trạng của mỗi cá nhân chúng ta tương ứng một cách rõ ràng với tình trạng sinh thái hiện nay của địa cầu. Nền văn minh nhân loại là một cấu trúc tập thể, nó đã dẫn đến sự phân ly tập thể với thế giới thiên nhiên, một sự phân ly tạo nên đau khổ. Đứng trước sự phân ly đó, chúng ta bị chi phối bởi một ám ảnh tập thể về sự an toàn, cố gắng “tạo chỗ đứng” cho chúng ta bằng kỹ thuật và kinh tế. Nhưng cho dù chúng ta có tàn phá hoặc chế ngự thiên nhiên bao nhiêu, chúng ta cũng không bao giờ thấy đủ, vì vấn đề nền tảng không phải là không đủ giàu hay đủ mạnh, nhưng là sự phân ly mà chúng ta cảm thấy đối với quả Địa cầu. Chúng ta không thể “trở về với thiên nhiên” vì chúng ta chưa bao giờ thật sự rời khỏi nó. Chúng ta cần tỉnh dậynhận ra rằng Địa cầu là Mẹ và cũng là nhà của chúng ta – và chúng ta thấy rằng sợi dây rốn nối liền chúng ta với Địa cầu không bao giờ có thể bị cắt đứt.

Đối với những vấn đề toàn cầu như hậu quả nhà kiếng, các tổ chức cá nhân và những quốc gia riêng lẻ sẽ không làm được việc gì. Ngoại trừ chúng ta cùng chung sức làm việc với nhau, chúng ta sẽ không tìm ra giải pháp nào. Mẹ Đất dạy cho chúng ta một bài học về tinh thần trách nhiệm chung.”
Đạt Lai Lạt ma thứ Mười bốn, Collected Statements on the Environment, 2007.

Nhìn thấy sự thất bại của những hệ thống kinh tế và chính trị của chúng ta, các tôn giáo ngày nay có một trách nhiệm đặc biệt về việc cổ vũ cho một thế giới quan tập thể mới. Đây là một cơ hội để các tôn giáo đứng lên bước vào cuộc phấn đấu mà không một tổ chức nào có vẻ có khả năng thực hiện. Để hoàn thành việc nầy, các tôn giáo cần học hỏi thêm việc trao đổihọc hỏi lẫn nhau.

Những tôn giáo khác nhau chỉ có thể thực hiện được việc đó khi nào những nhóm trong cùng tôn giáo đối thoại với nhauhiệu quả. Cuộc khủng hoảng sinh thái toàn cầu đòi hỏi chúng ta, những người Phật tử, làm việc và học hỏi với nhau để đáp ứng một cách thỏa đáng.

Bằng cách làm sáng tỏ giáo lý nền tảng của đức Phật, tiềm tàng trong những hình thức văn hóa khác nhau, chúng ta có thể củng cố thông điệp căn bản sống động của giáo pháp đó cho thời đại then chốt hiện nay. Mặc dầu những tổ chức Phật giáo – giống như những tổ chức của những tôn giáo khác – có khuynh hướng bảo thủ, sự nhấn mạnh của Phật giáo vào tính chất vô thường và không có bản thể cho chúng ta sự cởi mở và chấp nhận đối với những trách nhiệm mới mà chắc chắn chúng ta cần thiết hiện nay. Nếu những truyền thống Phật giáo khác nhau tập hợp lại để phát thảo một đáp ứng chung cho tình trạng khẩn cấp về khí hậu, thì đó thật sự là một điển hình gây cảm hứngPhật giáo có thể cung cấp cho những tôn giáo khác trên thế giới.

Chúng tôi tin rằng cuộc khủng lớn lao hiện nay kêu gọi các nhà lãnh đạo của mọi truyền thống Phật giáo một cuộc hội thảo quốc tế để tìm một sự đáp ứng chung. Tình trạng cấp bách của chúng ta ngày nay cũng nói lên sự cần thiết của một cuộc Kết Tập Phật Giáo – điều đã chỉ xảy ra sáu lần từ trước trong lịch sử Phật giáo. Cuộc Kết tập lần thứ nhất diễn ra tại Rajagaha ngay sau khi đức Phật nhập Niết bàn theo truyền thống Pali; cuộc Kết tập lần thứ sáu diễn ra ở Rangoon (Yangon) vào năm 1954.

Vì có ít nhà lãnh đạo Phật giáo là những người chuyên môn về khí hậu học, cuộc họp được đề nghị mở đầu bằng việc thông qua những số liệu mới nhất và ý nghĩa của chúng do các nhà khoa học khả kính đưa ra. Thời gian còn lại có thể được dùng cho những cuộc thảo luận tập trung giữa những người tham dự, chia sẻ cái nhìn Phật giáo về thời điểm quan trọng nầy, làm việc để đi đến một nhận thức với những nhắn gởi chung cho cộng đồng Phật tử toàn thế giới về cách ứng phó với cuộc khủng hoảng hiện nay. Sự hợp nhất của chúng ta sẽ cung cấp một điển hình có sức mạnh cho những truyền thống tôn giáo khác. Có thể tất cả chúng ta sẽ tham gia vào một cố gắng tạo thế cân bằng với những sức mạnh kinh tế đã kiềm chế và đánh lạc hướng cuộc tranh luận trong thời gian qua cho đến hiện tại.

Trong việc đề nghị một cuộc họp mặt Phật giáo toàn cầu, chúng tôi đã có những cuộc thảo luận khởi sự với các vị giữ những vài trò trọng yếu trong các truyền thống Phật giáo Tây tạng như Trangu Rinpoche, Dzigar Kongtrul Rinpoche, Ringu Tulku Rinpoche, Chokyi Nyima Rinpoche, và Tsoknyi Rinpoche. Sự đáp ứng của các vị nầy rất tích cực. Chúng tôi cũng tiếp xúc những vị Thầy của các tông phái Theravada, Zen, và Tịnh độ tông và những tổ chức thuộc các tông phái nầy ở Á châu và Tây phương. Chúng tôi đề nghị một một cuộc họp vào năm tới, chuẩn bị cho Hội Nghị Về Sự Thay Đổi Khí Hậu Của Liên Hiêp Quốc (United Nations Climate Change Conference) diễn ra vào tháng mười hai năm 2009.

Cuộc họp nầy dù được coi là một hội thảo quốc tế hay một cuộc Kết Tập, tầm quan trọng của nó là nhiều truyền thống Phật giáo sẽ có cơ hội gặp gỡ và xem xét tình trạng chung của chúng ta một cách kỹ lưỡng. Tất cà những kỳ Kết Tập trước kia là để chuẩn định và duy trì Giáo phápGiới luật, nhưng cuộc khủng hoảng ngày nay kêu gọi một nền tảng khác hơn. Thay vì hướng vào bên trong và tập trung vào việc làm sáng tỏ Giáo pháp của đức Phật, các vị Thầy Phật giáo cần nhìn ra bên ngoài và đặt vấn đề làm thế nào để giáo pháp của đức Phật có thể giúp chúng ta hiểu và đáp ứng cho vấn đề cấp bách của hành tinh chúng ta.

Cuộc khủng hoảng môi trường cũng là cuộc khủng hoảng đối với Phật giáo, không phải vì Phật giáo sẽ chịu thiệt hại nếu nền văn minh nhân loại thiệt hại, nhưng bởi vì Phật giáo là một tôn giáo quan tâm trực tiếp đến việc làm giảm sự đau khổ của mọi chúng sanh. Phật giáo có những điều đặc biệt có thể đóng góp cho cơn nguy ngập nầy, khi loài người cần sử dụng những điều tốt nhất cho một giai đoạn lịch sử của họ. Chúng ta cần những vị Bồ tát nguyện cứu độ không chỉ những chúng sanh đơn lẻ, mà còn cứu độ những hệ thống giúp cho sự sống và những loại đau khổ của một sinh quyển đang bị đe dọa.

(Buddhadharma số Mùa Đông 2008)

David R. Loy và John Stanley
Thị Giới dịch

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 3194)
Sự phát triển của thời đại công nghệ số, cám dỗ vật chất và những thách thức từ khủng hoảng môi trường, dịch bệnh, kinh tế, xã hội,…
(Xem: 3599)
“Này Cunda, nếu những gì thuộc quá khứhư vọng, không thật, không có lợi ích, Như lai không trả lời.
(Xem: 3763)
Sống trong thế giới đầy biến động của đại dịch COVID-19 bùng phát, mới thấy sự hiện hữu của con người trong mối tương quan
(Xem: 2899)
Khi Đức Phật còn hiện hữu cõi Ta-bà, chúng đệ tử xuất gia sống thanh tịnh, hòa hợp thành một thể thống nhất,
(Xem: 2679)
Ngoài Danh và Sắc, phần tâm linh và phần vật chất, là hai thành phần cấu tạo chúng sanh, Phật Giáo không chấp nhận
(Xem: 3190)
Ajhan Chah nói rằng nếu bạn muốn chuyển hóa tâm, bạn phải biết và chuyển hóa trái tim. Và khi thực hành bạn cảm thấy không thoải mái, muốn bỏ cuộc, đó là khi bạn biết mình đang đi đúng đường.
(Xem: 3679)
Giã từ cõi mộng điêu linh Tôi về buôn bán với mình phôi pha.
(Xem: 3284)
Những rộn ràng họp hội mấy giờ trước đã lắng xuống. Tiếng nói, giọng cười ai đó, đã tan vào hư không.
(Xem: 3355)
Những rộn ràng họp hội mấy giờ trước đã lắng xuống. Tiếng nói, giọng cười ai đó, đã tan vào hư không.
(Xem: 2952)
Học pháp là công việc quan trọng của người con Phật nếu muốn đạt được mục đích tối hậu của sự giải thoát.
(Xem: 3427)
Lắng nghe là một kỹ năng căn bản để kết nối cộng đồng. Lắng nghe để hiểu mình, hiểu người, để trút bỏ những ưu phiền, lạc quan vui sống, xây dựng xã hội tốt đẹp.
(Xem: 3774)
Pháp mang lại an bình, là nơi trú ẩn và hạnh phúc cho thế gian. Nếu thế giới bị tước đoạt Pháp, chúng ta không thể tìm thấy bất kỳ sự bình an nào ở đâu cả.
(Xem: 3602)
Vô Tầm Vô Tứ Định là nền tảng cơ bản của tất cả các loại Định trong Thiền Phật Giáo gồm chung cả ba hệ: Nguyên Thủy, Phát Triển và Thiền Tông.
(Xem: 3597)
Thiểu Dục là muốn ít; Tri túc là biết đủ. Muốn ít là đối với cái chưa có, mà vì nhu cầu, mong cho có.
(Xem: 2948)
Nói đến “Tâm” ai ai cũng hiểu được liền liền, nhưng đi sâu vào vấn đề là việc khác. Theo tôi được biết có nhiều người thường nói “Tâm” là (trái tim) có gì đâu mà diễn bày.
(Xem: 3591)
Theo nhà Phật thì trong kiếp này, có người “ở hiền” nhưng lại không được “gặp lành”, nguyên nhân là bởi họ phải “trả” những thứ đã “vay” ở trước đó!
(Xem: 3114)
Bồ tát là người tu tánh Không, ở trong tánh Không nhưng có lòng bi khi thấy chúng sanh vì không biết tánh Không nên điên đảo vọng tưởng
(Xem: 3628)
Kính số 52 Bát Thành có đoạn viết về sơ thiền một cách ngắn gọn như sau: “Ở đây, này Gia chủ, Tỷ-kheo ly dục, ly bất thiện pháp chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ”
(Xem: 3438)
Lời cầu nguyện được đức Đạt Lai Lạt Ma thứ mười bốn của Tây Tạng sáng tác, Vinh Danh và Nguyện Cầu Tam bảo Đại Bi: Đức Phật, Giáo Huấn, và Cộng Đồng Tâm Linh.
(Xem: 3421)
Cổ nhân có câu “họa tòng khẩu xuất” như muốn cảnh tỉnh, khuyên răn người đời chớ để cho cái miệng mình nói năng tùy tiện, lung tung mà có lúc tự rước họa vào thân!
(Xem: 3860)
Từ thuở ấu thơ cho đến lúc trưởng thành, có thể ai cũng từng được nghe những câu nói đại loại như: “Nếu không nói được gì tốt đẹp thì tốt nhất nên im lặng”.
(Xem: 3932)
Nếu kẻ nào cố ý tạo nghiệp, Ta nói rằng kẻ ấy phải thọ lấy quả báo. Hoặc thọ ngay trong đời hiện tại, hoặc thọ vào đời sau.
(Xem: 3305)
Trong Kinh Như Thị Ngữ (Itivutthaka), Đức Phật nói: "Tất cả những công đức mà ta thực hiện ở trên đời góp lại cũng không bằng công đức của sự thực tập Từ Quán.
(Xem: 3637)
Đức Phật khuyên ta mỗi ngày cần quán tưởng đến năm điều. Tất cả chúng ta đều biết những điều ấy, nhưng ta thường dễ quên.
(Xem: 3342)
Chủ đề khá nhạy cảm đã dẫn dắt vô số người trong quá khứ cũng như hiện tại; Phật tử cũng như tín đồ các Tôn giáo hiện nay ...
(Xem: 3160)
Trong Kinh Như Thị Ngữ (Itivutthaka), Đức Phật nói: "Tất cả những công đức mà ta thực hiện ở trên đời góp lại cũng không bằng công đức của sự thực tập Từ Quán.
(Xem: 3203)
Nếu bị người khác làm tổn thương, bạn vẫn cần yêu thương họ, nếu người khác khi dễ bạn, bạn phải tha thứ cho họ đấy gọi là rộng kết duyên lành.
(Xem: 4615)
Tuệ Trí của Đức Đạt Lai Lạt Ma là một phần trích từ xuất bản trước đó của quyển Năng lực của Từ bi
(Xem: 3574)
Quán niệm vô thường là một trong những nội dung tu tập căn bản của người Phật tử. Mọi sự mọi vật quanh ta luôn vận động, biến đổi từng phút, từng giây.
(Xem: 3124)
Xung quanh các hiện tượng mê tín dị đoan “có tổ chức” diễn ra gần đây, đã có nhiều ý kiến trái chiều về “con đường tu tập” với những...
(Xem: 4466)
Bụt đã từng sống với hàng ngàn vị khất sĩ túc trực xung quanh. Bụt cũng đi, cũng ngồi, cũng ăn cơm với những vị nam và nữ khất sĩ khác nhưng Ngài luôn an trú trong sự tĩnh lặng.
(Xem: 3389)
Chúng ta ai ai cũng biết, trong cuộc sống hiện tại đương thời, bây giờ là thời buổi khoa học đương thời đi lên.
(Xem: 3989)
Căn bản đời sống của chúng ta là đi tìm sự hạnh phúc và tránh né sự khổ đau, tuy nhiên điều tốt nhất mà ta có thể làm cho chính bản thân
(Xem: 4557)
Theo quan niệm của Phật giáo, Khổ (zh. 苦, sa. duḥkha, pi. dukkha) là cơ sở quan trọng của Tứ Diệu Đế.
(Xem: 3811)
Thoạt nhìn thì tánh Khôngtừ bi có vẻ ngược hướng nhau, vì tánh Không nhắm đến một thực tại tuyệt đối còn từ bi thì lại hướng về một thế giới và chúng sanh vô thường, tương đối.
(Xem: 3276)
Trong nền văn hóa của chúng ta, mọi người rất khó khăn để hướng sự yêu thương tử tế đến với chính bản thân họ.
(Xem: 3529)
Ngồi lắng lòng lại để cảm nhận từng hơi thở trong ta, nghe những thanh âm của cuộc sống và nghĩ về cuộc đời của những người ngoài kia,
(Xem: 3109)
Trong xã hội Ấn Độ thời cổ đại, vị trí người phụ nữ hãy còn thấp kém. Tôn giáo và các giáo phái đương thời không đồng tình cho người nữ xuất gia.
(Xem: 3307)
Trong đời sống thường nhật, nếu muốn được tự do tự tại tất phải thực hiện bằng được hai nguyên tắc “thiểu dục” và “tri túc”.
(Xem: 3803)
Theo lời Phật dạy, nhân quả là một định luật mang tính tất yếu. Gieo nhân lành thì được hưởng quả lành, tạo nhân ác thì chịu quả báo ác.
(Xem: 3787)
Phật dạy: “Không có gì là ngẫu nhiên”. Dường như nó cũng là một sự sắp xếp tưởng như vô tình mà lại hữu ý để loài người nhận ra những điều quan trọng, điều gì đó lớn hơn con virus...
(Xem: 3352)
Đã có quá nhiều bài trên các trang mạng nói đến chính giáotà giáo. Đứng góc độ nào để phân biệt chính và tà?
(Xem: 3246)
Theo Phật giáo, nghiệp là hành động có tác ý, chủ ý của thân (Kāya, 身), khẩu (Vacī, 口), ý (Mano, 意).
(Xem: 3213)
“Lại nói: Ta vừa khởi một tâm thì nó đã thuộc về quá khứ. Tâm ta chưa khởi mới gọi là vị lai. Chẳng phải tâm vị lai tức là tâm quá khứ, tâm hiện tại lại ở tại chỗ nào.
(Xem: 3146)
Phàm ở đời, những ai muốn xây dựng sự nghiệp lớn, đều phải có đức nhẫn nhục để vượt qua bao lần thất bại mới đạt được thành công.
(Xem: 3596)
Giữa tâm điểm đại dịch COVID-19 diễn ra một cách phức tạp trong đời sống thực tiễn không chỉ ở nước ta mà khắp cả các nước trên hành tinh này,
(Xem: 3400)
Muốn ít và biết đủ tiếng Hán gọi là “Thiểu dục-Tri túc”. Đây là hai khái niệm Phật học được đề cập nhiều trong Kinh tạng, Luật tạng cũng như trong Tạng vi diệu pháp.
(Xem: 3400)
Một người khi sắp mạng chung, hành trang để đi đến đời sống khác chắc chắn không phải là tiền bạc, danh vọng mà đó chính là nghiệp thiện hay ác của chính mình.
(Xem: 3469)
Dzongsar Khyentse Rinpoche lấy phim làm một ví dụ cho lời dạy của Đức Phật về luân hồi, niết bànbản thân đời sống.
(Xem: 3960)
Đức Phật nói rằng không thể có một đời sống tâm linh chân chính nếu không có một trái tim rộng lượng.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant