Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Pháp Xuất Gia Trong Luật Tạng Pali Và Luật Tứ Phần

16 Tháng Mười Hai 202120:01(Xem: 2892)
Pháp Xuất Gia Trong Luật Tạng Pali Và Luật Tứ Phần
Pháp Xuất Gia Trong Luật Tạng Pali Và Luật Tứ Phần 

Thích Nữ Liên Liên

loi-phat-day-2


Khi Đức Phật còn hiện hữu cõi Ta-bà, chúng đệ tử xuất gia sống thanh tịnh, hòa hợp thành một thể thống nhất, cùng nhau sinh hoạt, cùng nhau tu học trong môi trường phạm hạnh; tất cả đều tự giác tuân thủ hành trì theo giáo pháp và những nội quy do Ngài đề ra. Tuy nhiên, sau khi Đức Phật nhập Niết-bàn, hội chúng Tăng đoàn bắt đầu có sự mâu thuẫn, chống đối, bất hòa với nhau. Qua thời gian, trong hệ thống Tăng đoàn bắt đầu có sự phân chia giáo phái. Các giáo phái đều tuân thủ theo những gì Đức Phật đã định nhưng cũng tồn tại một số dị biệt giữa họ do lập trường tư tưởng, quan điểm khác nhau. Trong số các bộ phái ấy có Theravāda và Dharmaguptaka. Hai bộ phái này có hai bộ luật riêng. Theravāda có bộ luật Pāli còn Dharmaguptaka có bộ luật Tứ phần. Ở bài viết này, người viết dựa vào vào hai bộ luật vừa nêu để so sánh phương thức xuất gia giữa hai bộ luật của hai truyền thống Phật giáo, xem xét những điểm tương đồng và dị biệt được nêu ra trong đó.

Điểm tương đồng

- Đối với bậc Vô lậu

Thời Đức Phật còn tại thế có nhiều vị Thánh tăng xuất hiện. Và đối với những bậc thiện căn thiện trí, chỉ qua một vài lần nghe pháp được Đức Thế Tôn thuyết giảng, họ có thể giác ngộ, chứng đắc Thánh quả. Với những bậc này, Đức Thế Tôn chỉ đơn giản nói lời xác nhận sự xuất gia của họ. Điểm này có sự tương đồng giữa luật Tứ phần và Luật tạng Pāli.

Với Luật tạng Pāli, câu nói xác quyết “Này các Tỷ-kheo, hãy đến. Pháp đã khéo được thuyết giảng, hãy thực hành Phạm hạnh một cách đúng đắn để chấm dứt khổ đau”1 có mặt khắp trong bộ luật. Trong Tứ phần luật, Đức Phật dạy: “Hãy đến đây, Tỷ-kheo! Hãy ở trong pháp của Ta, tự chứng nghiệm, tu Phạm hạnh, để đoạn tận nguồn khổ”.2Khi Đức Phật cất lên lời này, vị thiện nam dứt sạch các trần cấu, đắc pháp nhãn tịnh, thấy pháp, đắc pháp, thành tựu các pháp, tự thân đạt được quả chứng, phát tâm xuất gia, muốn tu Phạm hạnh trong giáo pháp của Đức Như Lai. Ngoài ra, câu nói ấy còn là sự xác quyết vị Tỷ-kheo kia đã được thọ giới Cụ túc. Ở đây chúng ta thấy rằng, quá trình xuất gia tu họcthọ giới Cụ túc (tu lên bậc trên - theo cách diễn đạt của Luật tạng Pāli) của các vị này hầu như diễn ra trong cùng một lúc. Trước đó còn đang là một vị thiện nam nhưng sau khi nghe lời thuyết giảng từ Đức Phật, tức thì giác ngộtrở thành một Tỷ-kheo như pháp, đắc Thánh quả sau khi Đức Thế Tôn xác quyết bằng câu nói trên.

Nói cách khác, vào thời Đức Phật tại thế, khi Ngài xác quyết, khuyến tấn một vị xuất gia (như trên đã trình bày) là đồng nghĩa vị ấy đã liễu sinh thoát tử, chứng đắc Thánh quả. Thọ giới Cụ túc chính là vị ấy đã là Thánh tăng. Đây là điểm khác biệt rõ ràng giữa xuất gia - thọ giới của các bậc Vô họcphàm phu Tăng.

- Độ phàm tăng xuất gia

Sau khi Tăng bảo hình thành kể từ lúc Tăng đoàn được thành lập, lúc ấy nhiều người ở nhiều xứ sở khác nhau muốn xuất gia đã theo các Tỷ-kheo đến xin Đức Thế Tôn cho phép được xuất gia. Như thế, dù ở bất cứ địa phương nào, nếu muốn xuất gia thì những vị này phải đến nơi Đức Phật đang cư trú. Đức Phật nhận thấy “Trong trường hợp ấy, chính các vị Tỷ-kheo, luôn cả những người có ý muốn xuất gia đều mệt nhọc”3 nên Ngài cho phép từ đó về sau, các Tỷ-kheo ở mọi trú xứ, mọi địa phương, khi có người khởi tâm muốn xuất gia thì chính các vị Tỷ-kheo ấy được phép làm lễ xuất gia cho họ. Pháp xuất gia được Đức Phật dạy như sau:

Trước tiên, nên cho cạo bỏ râu tóc, cho choàng lên các tấm vải màu hoại sắc, cho đắp thượng y một bên vai, bảo đảnh lễ ở chân các vị Tỷ-kheo, bảo ngồi chồm hổm, bảo chắp tay lên, và nên bảo rằng: “Ngươi hãy nói như vầy: Tôi đi đến Đức Phật là nơi nương nhờ (Tôi xin quy y Phật). Tôi đi đến giáo pháp là nơi nương nhờ (Tôi xin quy y Pháp). Tôi đi đến với hội chúng là nơi nương nhờ (Tôi xin quy y Tăng).” (Lần thứ hai và thứ ba đều đọc như vậy).4

Và theo Tứ phần luật, Đức Phật đã dạy người phát tâm xuất gia phải như sau: “…Như pháp sau đây: Cho cạo tóc, dạy mặc ca-sa, để trống vai bên hữu, cởi bỏ dép, đầu gối bên hữu chấm đất, chắp tay thưa: ‘Con là… quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng Tỷ-kheo. Con ở trong pháp của Như Lai xuất gia học đạo. Đức Như Lai là bậc Chí chân, Đẳng Chánh giác của con!’”.5 (Lần thứ hai và thứ ba đều đọc như vậy).

Như vậy ở điểm này, về cơ bản cả Tứ phần luật lẫn Luật tạng Pāli đều tương đồng nhau. Hay nói cách khác, ở cả hai bộ luật này, một người muốn xuất gia trước hết phải cạo sạch râu tóc, mặc áo ca-sa, đến trước đại chúng ba lần đọc lời phát nguyện nương tựa vào ba ngôi báu. Đó là pháp xuất gia cơ bản.

Bên cạnh đó, khi Đức Thế Tôn ngự tại thành Kapilavatthu, ở tu viện Nigrodha, vào buổi sáng, Ngài đã mặc y, cầm bát vào cung điện của vua Tịnh Phạn (Suddhodana). Mẹ của Rāhula bảo con mình đến xin phần thừa kế từ Đức Thế Tôn và Rāhula đã làm theo lời mẹ mình chỉ dạy. Khi ấy Đức Phật đã dạy Tôn giả Xá-lợi-phất (Sāriputta) làm pháp xuất gia cho hoàng tử Rāhula. Và cũng từ việc độ Rāhula xuất gia, Đức Phật quy định người muốn xuất gia phải có sự đồng ý của cha mẹ, nếu khôngcha mẹ thì phải có sự đồng thuận từ người bảo hộ. Đây cũng là điểm giống nhau thứ hai giữa cả hai truyền thống luật.

Ngoài ra Đức Phật còn quy định rằng người bị khuyết tật, thiếu căn, hay kẻ tội đồ bị truy nã… đều không được xuất gia, nhằm tránh việc người không có tín tâm sinh lòng bất kính đối với Tam bảo. Đây là điểm tương đồng thứ ba giữa hai hệ thống luật về việc xuất gia. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn tồn tại vài điều dị biệt giữa hai bộ phái này.

Điểm dị biệt

Chúng ta có thể tóm tắt các điểm dị biệt của hai truyền thống luật ở bảng sau:

Nhận xétTứ phần luật có phần khai thoáng hơn, có thể cho phép người khác xuất gia dù không đủ Tăng, chỉ cần đến từng phòng rồi thưa cho các vị ấy biết có người xuất gia là được. Trong khi với Luật tạng Pāli, muốn độ người xuất gia thì nhất thiết phải tác pháp giữa đại chúng rồi mới được làm lễ xuất gia.

Như vậy, pháp xuất gia được Đức Phật chỉ dạy rất đơn giản. Điều tiên quyết nhất vẫn là phải phát tâm quy y, xin trở về nương tựa vào Đức Phật, giáo phápTăng chúng (Phật - Pháp - Tăng). Người khởi tâm muốn vào cửa đạo, sống đời cắt ái ly gia thoát tục phải có niềm tin sâu sắc và tôn kính đối với Tam bảo; cơ thể lành lặn, đầy đủ các căn; không phải là người mang tội bị lệnh truy nã, và quan trọng phải có sự chấp thuận của cha mẹ hoặc người bảo hộ, được như vậy mới độ cho họ thế phát xuất gia tu họcthọ giới lên bậc trên.

Tựu trung lại, xuất gia dù ở thời đại nào, không gianthời gian nào đều là việc làm từ chính sự phát tâm với tâm nguyện hoài bão muốn trở về tu học trong giáo lý của Phật-đà, bước đầu đặt chân trên đạo lộ tiến về giác ngộ, giải thoát. Người phát tâm xuất gia là đã xác định hướng đi cho chính mình ở hiện tại và tương lai gần, chấp nhận mọi thử thách trên bước đường mình đã chọn. Từ đó, tâm thái và oai nghi được hình thành, nương tu tập thọ trì giới pháp mà trở nên oai nghi, giới đức tỏa sáng, cảm hóa người cùng huân tu.

Thích Nữ Liên Liên/ Nguyệt san Giác Ngộ

_________________________________

(1) Xem Đại phẩm, tập 1, chương Trọng yếu, Indacanda dịch, NXB.Tôn Giáo, 2017.

(2) Xem Luật Tứ phần, tập 3, chương Thọ giới, HT.Thích Đỗng Minh dịch, NXB.Phương Đông, 2013.

(3) Đại phẩm, tập 1, Indacanda dịch, NXB.Tôn Giáo, 2017, tr.37.

(4) Sđd., tr.38, 39, 160, 161.

(5) Luật Tứ phần, tập 3, HT.Thích Đỗng Minh dịch, NXB.Phương Đông, 2013, tr.1223.

(6) Xem Đại phẩm, tập 1, Indacanda dịch, NXB.Tôn Giáo, 2017, tr.176-178.

(7) Xem Luật Tứ phần, tập 3, Thích Đỗng Minh dịch, NXB.Phương Đông, 2013, tr.1213-1220.

(8) Đại phẩm, tập 1, Indacanda dịch, NXB.Tôn Giáo, 2017, tr.153.

(9) Sđd., tr.1228.

(10) Luật Tứ phần, tập 3, HT.Thích Đỗng Minh dịch, NXB.Phương Đông, 2013, tr.1225.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 3756)
Sống trong thế giới đầy biến động của đại dịch COVID-19 bùng phát, mới thấy sự hiện hữu của con người trong mối tương quan
(Xem: 2677)
Ngoài Danh và Sắc, phần tâm linh và phần vật chất, là hai thành phần cấu tạo chúng sanh, Phật Giáo không chấp nhận
(Xem: 3183)
Ajhan Chah nói rằng nếu bạn muốn chuyển hóa tâm, bạn phải biết và chuyển hóa trái tim. Và khi thực hành bạn cảm thấy không thoải mái, muốn bỏ cuộc, đó là khi bạn biết mình đang đi đúng đường.
(Xem: 3668)
Giã từ cõi mộng điêu linh Tôi về buôn bán với mình phôi pha.
(Xem: 3270)
Những rộn ràng họp hội mấy giờ trước đã lắng xuống. Tiếng nói, giọng cười ai đó, đã tan vào hư không.
(Xem: 3345)
Những rộn ràng họp hội mấy giờ trước đã lắng xuống. Tiếng nói, giọng cười ai đó, đã tan vào hư không.
(Xem: 2947)
Học pháp là công việc quan trọng của người con Phật nếu muốn đạt được mục đích tối hậu của sự giải thoát.
(Xem: 3422)
Lắng nghe là một kỹ năng căn bản để kết nối cộng đồng. Lắng nghe để hiểu mình, hiểu người, để trút bỏ những ưu phiền, lạc quan vui sống, xây dựng xã hội tốt đẹp.
(Xem: 3770)
Pháp mang lại an bình, là nơi trú ẩn và hạnh phúc cho thế gian. Nếu thế giới bị tước đoạt Pháp, chúng ta không thể tìm thấy bất kỳ sự bình an nào ở đâu cả.
(Xem: 3595)
Vô Tầm Vô Tứ Định là nền tảng cơ bản của tất cả các loại Định trong Thiền Phật Giáo gồm chung cả ba hệ: Nguyên Thủy, Phát Triển và Thiền Tông.
(Xem: 3588)
Thiểu Dục là muốn ít; Tri túc là biết đủ. Muốn ít là đối với cái chưa có, mà vì nhu cầu, mong cho có.
(Xem: 2937)
Nói đến “Tâm” ai ai cũng hiểu được liền liền, nhưng đi sâu vào vấn đề là việc khác. Theo tôi được biết có nhiều người thường nói “Tâm” là (trái tim) có gì đâu mà diễn bày.
(Xem: 3591)
Theo nhà Phật thì trong kiếp này, có người “ở hiền” nhưng lại không được “gặp lành”, nguyên nhân là bởi họ phải “trả” những thứ đã “vay” ở trước đó!
(Xem: 3101)
Bồ tát là người tu tánh Không, ở trong tánh Không nhưng có lòng bi khi thấy chúng sanh vì không biết tánh Không nên điên đảo vọng tưởng
(Xem: 3618)
Kính số 52 Bát Thành có đoạn viết về sơ thiền một cách ngắn gọn như sau: “Ở đây, này Gia chủ, Tỷ-kheo ly dục, ly bất thiện pháp chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ”
(Xem: 3423)
Lời cầu nguyện được đức Đạt Lai Lạt Ma thứ mười bốn của Tây Tạng sáng tác, Vinh Danh và Nguyện Cầu Tam bảo Đại Bi: Đức Phật, Giáo Huấn, và Cộng Đồng Tâm Linh.
(Xem: 3416)
Cổ nhân có câu “họa tòng khẩu xuất” như muốn cảnh tỉnh, khuyên răn người đời chớ để cho cái miệng mình nói năng tùy tiện, lung tung mà có lúc tự rước họa vào thân!
(Xem: 3854)
Từ thuở ấu thơ cho đến lúc trưởng thành, có thể ai cũng từng được nghe những câu nói đại loại như: “Nếu không nói được gì tốt đẹp thì tốt nhất nên im lặng”.
(Xem: 3925)
Nếu kẻ nào cố ý tạo nghiệp, Ta nói rằng kẻ ấy phải thọ lấy quả báo. Hoặc thọ ngay trong đời hiện tại, hoặc thọ vào đời sau.
(Xem: 3295)
Trong Kinh Như Thị Ngữ (Itivutthaka), Đức Phật nói: "Tất cả những công đức mà ta thực hiện ở trên đời góp lại cũng không bằng công đức của sự thực tập Từ Quán.
(Xem: 3631)
Đức Phật khuyên ta mỗi ngày cần quán tưởng đến năm điều. Tất cả chúng ta đều biết những điều ấy, nhưng ta thường dễ quên.
(Xem: 3330)
Chủ đề khá nhạy cảm đã dẫn dắt vô số người trong quá khứ cũng như hiện tại; Phật tử cũng như tín đồ các Tôn giáo hiện nay ...
(Xem: 3150)
Trong Kinh Như Thị Ngữ (Itivutthaka), Đức Phật nói: "Tất cả những công đức mà ta thực hiện ở trên đời góp lại cũng không bằng công đức của sự thực tập Từ Quán.
(Xem: 3196)
Nếu bị người khác làm tổn thương, bạn vẫn cần yêu thương họ, nếu người khác khi dễ bạn, bạn phải tha thứ cho họ đấy gọi là rộng kết duyên lành.
(Xem: 4591)
Tuệ Trí của Đức Đạt Lai Lạt Ma là một phần trích từ xuất bản trước đó của quyển Năng lực của Từ bi
(Xem: 3570)
Quán niệm vô thường là một trong những nội dung tu tập căn bản của người Phật tử. Mọi sự mọi vật quanh ta luôn vận động, biến đổi từng phút, từng giây.
(Xem: 3123)
Xung quanh các hiện tượng mê tín dị đoan “có tổ chức” diễn ra gần đây, đã có nhiều ý kiến trái chiều về “con đường tu tập” với những...
(Xem: 4462)
Bụt đã từng sống với hàng ngàn vị khất sĩ túc trực xung quanh. Bụt cũng đi, cũng ngồi, cũng ăn cơm với những vị nam và nữ khất sĩ khác nhưng Ngài luôn an trú trong sự tĩnh lặng.
(Xem: 3384)
Chúng ta ai ai cũng biết, trong cuộc sống hiện tại đương thời, bây giờ là thời buổi khoa học đương thời đi lên.
(Xem: 3979)
Căn bản đời sống của chúng ta là đi tìm sự hạnh phúc và tránh né sự khổ đau, tuy nhiên điều tốt nhất mà ta có thể làm cho chính bản thân
(Xem: 4539)
Theo quan niệm của Phật giáo, Khổ (zh. 苦, sa. duḥkha, pi. dukkha) là cơ sở quan trọng của Tứ Diệu Đế.
(Xem: 3807)
Thoạt nhìn thì tánh Khôngtừ bi có vẻ ngược hướng nhau, vì tánh Không nhắm đến một thực tại tuyệt đối còn từ bi thì lại hướng về một thế giới và chúng sanh vô thường, tương đối.
(Xem: 3270)
Trong nền văn hóa của chúng ta, mọi người rất khó khăn để hướng sự yêu thương tử tế đến với chính bản thân họ.
(Xem: 3528)
Ngồi lắng lòng lại để cảm nhận từng hơi thở trong ta, nghe những thanh âm của cuộc sống và nghĩ về cuộc đời của những người ngoài kia,
(Xem: 3099)
Trong xã hội Ấn Độ thời cổ đại, vị trí người phụ nữ hãy còn thấp kém. Tôn giáo và các giáo phái đương thời không đồng tình cho người nữ xuất gia.
(Xem: 3303)
Trong đời sống thường nhật, nếu muốn được tự do tự tại tất phải thực hiện bằng được hai nguyên tắc “thiểu dục” và “tri túc”.
(Xem: 3798)
Theo lời Phật dạy, nhân quả là một định luật mang tính tất yếu. Gieo nhân lành thì được hưởng quả lành, tạo nhân ác thì chịu quả báo ác.
(Xem: 3784)
Phật dạy: “Không có gì là ngẫu nhiên”. Dường như nó cũng là một sự sắp xếp tưởng như vô tình mà lại hữu ý để loài người nhận ra những điều quan trọng, điều gì đó lớn hơn con virus...
(Xem: 3341)
Đã có quá nhiều bài trên các trang mạng nói đến chính giáotà giáo. Đứng góc độ nào để phân biệt chính và tà?
(Xem: 3236)
Theo Phật giáo, nghiệp là hành động có tác ý, chủ ý của thân (Kāya, 身), khẩu (Vacī, 口), ý (Mano, 意).
(Xem: 3204)
“Lại nói: Ta vừa khởi một tâm thì nó đã thuộc về quá khứ. Tâm ta chưa khởi mới gọi là vị lai. Chẳng phải tâm vị lai tức là tâm quá khứ, tâm hiện tại lại ở tại chỗ nào.
(Xem: 3139)
Phàm ở đời, những ai muốn xây dựng sự nghiệp lớn, đều phải có đức nhẫn nhục để vượt qua bao lần thất bại mới đạt được thành công.
(Xem: 3571)
Giữa tâm điểm đại dịch COVID-19 diễn ra một cách phức tạp trong đời sống thực tiễn không chỉ ở nước ta mà khắp cả các nước trên hành tinh này,
(Xem: 3391)
Muốn ít và biết đủ tiếng Hán gọi là “Thiểu dục-Tri túc”. Đây là hai khái niệm Phật học được đề cập nhiều trong Kinh tạng, Luật tạng cũng như trong Tạng vi diệu pháp.
(Xem: 3393)
Một người khi sắp mạng chung, hành trang để đi đến đời sống khác chắc chắn không phải là tiền bạc, danh vọng mà đó chính là nghiệp thiện hay ác của chính mình.
(Xem: 3464)
Dzongsar Khyentse Rinpoche lấy phim làm một ví dụ cho lời dạy của Đức Phật về luân hồi, niết bànbản thân đời sống.
(Xem: 3949)
Đức Phật nói rằng không thể có một đời sống tâm linh chân chính nếu không có một trái tim rộng lượng.
(Xem: 3423)
Giữa tâm điểm đại dịch COVID-19 diễn ra một cách phức tạp trong đời sống thực tiễn không chỉ ở nước ta mà khắp cả các nước trên hành tinh này,
(Xem: 3778)
Thật là một thảm họa khi tôi dự khóa tu thiền lần đầu tiên. Lưng tôi yếu sau nhiều năm ngồi gù lưng trước máy tính và ...
(Xem: 3445)
Muốn ít và biết đủ tiếng Hán gọi là “Thiểu dục-Tri túc”. Đây là hai khái niệm Phật học được đề cập nhiều trong Kinh tạng, Luật tạng cũng như trong Tạng vi diệu pháp.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant