Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Các Phật Tử Tin Tưởng Gì?

10 Tháng Mười Một 201619:25(Xem: 9131)
Các Phật Tử Tin Tưởng Gì?
CÁC PHẬT TỬ TIN TƯỞNG GÌ?

HT. Thích Chơn Thiện


 Các Phật Tử Tin Tưởng Gì

Đây là câu hỏi mà nhiều người gần đây khi đối mặt với những lời dạy của Đức Phật thường đặt ra, và sau khi đã quyết nghi, nhiều người tự nguyện tuyên bố mình là đệ tử Đức Phật.

1. Tín ngưỡng trong Phật giáo

Trước hết cần phải hiểu ý nghĩa của từ tín ngưỡng (belief) trong Phật pháp, tín ngưỡng bao hàm lòng tin (faith) hay đức tin và cả hai từ này đối với tín đồ Thiên Chúa giáo đều mang ý nghĩa “tín điều” (creed) (gồm hết những gì gọi là tín ngưỡng) và giáo điều (dogmas – những diễn đạt của nhà thờ áp đặt lên mọi tín đồ thực thụ). 

Trong Phật pháp không có tín điềugiáo điều. Người Phật tử tự do đặt nghi vấn mọi điều Phật pháp. Quả vậy, Bậc Đạo Sư đã từng khích lệ họ làm như thế. Không có gì ngăn cấm người phật tử đặt nhiều nghi vấn, không có lời dạy nào bảo người phật tử phải khép kín tâm trí mình lại, và phải tin tưởng một cách mù quáng.

Sở dĩ như vậy là vì lòng tin trong ý nghĩa của Phật giáo không mang tính chất mù quángbao gồm trí tuệ. Như vậy, một người được thu hút đến Phật pháp bởi vì anh ta có trí tuệ nào đó để trực nhận một ít sự thật trong Phật pháp, trong khi đó, do lòng tin, anh chấp nhận những sự thật của giáo lý như là những gì mà anh ta chưa xác chứng. 

Thực hành Phật pháp, anh ta thấy rằng Phật pháp thực sự hữu hiệu, thực tiễn và như thế lòng tin của anh ta tăng trưởng lên. Khi lòng tin tăng trưởng, anh có thể thực hành sâu xa hơn và như thế anh chứng nghiệm nhiều hơn về sự thật. Do đó lòng tin lại càng tăng trưởng mạnh mẽ hơn.

Như vậy, thực hành lòng tintrí tuệ bổ túc cho nhau và làm cho nhau mạnh mẽ lên. Trong trường hợp này, cũng như trong nhiều giáo lý của đạo Phật, thật dễ hiểu tại sao Phật pháp được biểu tượng bằng một bánh xe Pháp vì đây là biểu tượng của một sự trưởng thành tích cực cho dẫn chứng trên. 

2. Thực hành và xác chứng lời Đức Phật dạy

Thực hành và xác chứng lời Đức Phật dạy sẽ đưa đến kết quả là người ta sẽ tự mình chứng nghiệm sự thật của toàn bộ giáo lý Đức Phật trong chính cuộc đời này. Điều này được thực hiện nhờ tinh cần thực hành.

Đức Phật đã bảo đảm cho mọi người rằng họ có thể xác chứng những lời dạy của Ngài khi Ngài tuyên bố rằng giáo lý của Ngài là cái gì để “đến và thấy”, có nghĩa là tìm hiểu cho chính mình thực hiện thử xem nó có hữu hiệu không, điều ấy có thể thực hiện được, vì Đức Phật không quan tâm đến lý luận (những thứ chỉ dẫn đưa con người đi lạc hướng), mà quan tâm đến những phát hiện và những lời dạy về con đường thực tiễn của tiến bộ tâm thức, “con đường hướng nội” mà người trí tự xác chứng cho mình.

3. Phật phápphương pháp chứ không phải là học thuyết

Điểm này đưa đến một sự phân biệt rất quan trọng khác giữa giáo lý của Đức Phậtgiáo lý của hết thảy các tôn giáo khác. Các tôn giáo khác dạy những học thuyết, tín điềugiáo lý không đưa ngay đến thực chứng (hay thực ra chúng được giả thiết  rằng sẽ được thực chứng) mà phải được chấp nhận với lòng tin. Đức Phật dạy những phương pháp người ta có thể áp dụng vào đời sống riêng của mỗi người và nhanh chóng thấy được lợi ích của sự thực hành ở đây và bây giờ.

Thực vậy, toàn bộ giáo lý Phật giáo đã là một khối lượng những phương pháp uyển chuyển thích hợp nhiều mặt cho từng lúc, từng nơi khác nhau và quan trọng nhất là cho những căn tánh khác nhau của con người. Ngoài việc định nghĩa Đạo Phật là những phương pháp hay những phương tiện thiện xảo, thật chính xác khi nói rằng đạo Phật không có lời dạy nào mà không:

a) Xây dựng trên căn bản

hoặc

b) Dẫn đến sự giác ngộ tối thượng như Đức Phật đã chứng nghiệm

“Xây dựng trên căn bản” có nghĩa là phát khởi từ kinh nghiệm chứng ngộ đã khiến Đức Gotama, vị ẩn sĩ khổ hạnh, trở nên một Bậc Giác ngộ hay một Bậc Giác tỉnh (Đức Phật ở đây là một tước hiệu chứ không phải là một cái tên). “Dẫn đến” nghĩa là tất cả các lời dạy của Đức Phật đều nhằm mục đích là tất cả mọi người thực hiện đều có thể đi đến chứng nghiệm cái đại tuệ mà Đức Phật đã chứng đạt.

4. Ngôi Tam Bảo

Vậy thì Phật tử đặt tin tưởng vào đâu? Họ tin vào ngôi Tam Bảo: Đức Phật, Pháp và Tăng (những đệ tử giác ngộ của Đức Phật). Ở Thái Lan, khi đi đến một ngôi chùa Phật để tụng đọc bằng tiếng Pali cổ mà Đức Phật đã thuyết, tụng đọc những đoạn văn xuôi, những câu kệ tôn kínhtán thán ngôi Tam Bảo, trong những dịp ấy, Phật tử tự hiến mình để đi theo, để hiểu và chứng nhập nội tâm ý nghĩa về Phật, Pháp và Tăng già.(1) (Đức Phật, những lời dạy của Ngài và các đệ tử của Ngài). Phật tử là người nương tựa nơi ngôi Tam Bảo hay đến để nhận sự hướng dẫn của ngôi Tam Bảo vì họ đã tìm thấy ở trong đó những dấu hiệu của chân lý vô úytối thượng.

5. Tôn kính những Bậc Đạo Sư

Chúng ta cần đề cập đến sự tôn kính đối với các bậc thầy về tinh thần, những vị tu sĩ hoặc cư sĩ trong giới Phật giáo. Những bậc Đạo Sư ấy là những “Thiện hữu” cho chúng ta những lời khuyên quý giá, thường dựa vào những chứng đắc mà quý vị ấy đã đạt được một cách khó khăn, chỉ cho chúng ta con đường chân chính đưa đến giải thoát. Hình thức cung kính những Bậc Đạo Sư như thế (những vị đối với những đệ tử trong hiện tại, tiêu biểu cho Đức Phật) và những tranh tượng của chính Bậc Giác Ngộ, mà nếu thiếu đức tính khiêm cung ấy thì người ta chỉ có rất ít hoặc không có tiến bộ tâm thức nào. 

 Chúng ta thấu hiểu rõ ràng, trong tâm lý học Phật giáo, chẳng những tầm ảnh hưởng vào thân, mà những hành động của thân cũng ảnh hưởng vào tâm, cả hai thực sự phụ thuộc nhau. Từ đó có sự cẩn trọng trong lễ lạy, sự thân thiết khi thực hiệnthái độ niệm tưởng cần phải kèm theo. Người ta thường lễ lạy ba lạy liên tục tỏ lòng tôn kính Bậc Giác Ngộ, tôn kính con đường đi đến giác ngộ của Ngài và tôn kính những vị nhờ hành trì theo con đường ấy mà đạt được giải thoát, khỏi những ô nhiễm của tâm và đạt được trí tuệ gọi là giác ngộ.

Việc thực hành Phật pháphiệu quả, đặc biệt về những phần thiền định và rí tuệ, điều này, tùy thuộc rất nhiều vào việc ta có được một người hướng dẫn mà chắc chắnkinh nghiệm nhiều hơn chúng ta hay không. Mặc dù có một vài loại thiền định của Phật giáo mà việc thực hiện không cần có thầy chỉ dẫn, nhưng thông thường thì sự có mặt của thầy vẫn đem lại cho chúng ta nhiều lợi lạc hơn, nếu đây là một vị thiện xảo. Những vị thầy ấy rất đáng kính vì nếu có đủ cả kiến thứctrí tuệ thì các vị thầy ấy giúp ích rất nhiều cho những ai học và thực hành giáo pháp.

Những lễ dâng trong một ngôi chùa

Trong vấn đề tôn kính, hẳn cũng cần phải biết ý nghĩa của nhiều những lễ dâng lên Đức Phật, vì Phật giáo thực sự không chứa đựng cái gì vô nghĩa cả, nếu có sự thực hành vô nghĩa nào thì thực ra đó không phải là giáo lý của Đức Phật.

Có ba lễ dâng thông dụng: hương, hoa, và đèn, cho chúng ta dịp thực hiện một ít thiền quán riêng lẻ trong khi chúng ta dâng lễ. 

- Khi thắp nến hay đèn, chúng ta tác niệm: “Ôi mong sao con được giác ngộ”. 

- Những cây hương được thắp từ ánh lửa nến (hay đèn) ấy (thường là 3 cây hương) với tác niệm “để thành tựu sự giác ngộ ấy”, trong khi mùi hương dịu tỏa khắp mười phương, xin nguyện cho mùi hương đức hạnh của con rải đến khắp cả chúng sinh

- Dâng hoa với hai bàn tay chắp lại ta suy nghĩ: “Cuộc đời này thì ngắn ngủi, cho dù những bông hoa này, ngày hôm nay tươi đẹp ngày mai sẽ úa tàn và vẩn mùi. Cái mà con gọi đây là thân xác thì cũng như thế mà thôi”. 

Hiểu được điều ấy trong cuộc sống trôi chảyvô thường này, người Phật tử nỗ lực duy trìnâng cao tiêu chuẩn giới đức của mình và bước thêm một bước hướng về giác ngộThỉnh thoảng phật tử cũng dâng cúng thực phẩm và nước uống lên hình tượng của Bậc Đạo Sư, dĩ nhiên họ không nghĩ rằng Ngài sẽ dùng, mà chính họ, bằng thái độ sùng đạo, họ chỉ dùng thực phẩm khi nào một ít của phần thực phẩm tốt được dâng cúng Đức Phật trước tiên. Đức Phậttối thượng của loài người, Ngài xứng đáng với những dâng cúng tốt nhất, phần hơn nữa, việc tu tập của người phật tử gồm trong sự chia sẻ những thứ tốt lành cho người khác.

Ba lễ vật thông thường đôi khi còn được nối kết trực tiếp với ngôi Tam Bảo: Những bông hoa, đặc biệthoa sen, là những biểu tượng về Đức Phật

hoa sen mọc lên từ bùn mà không uế nhiễm. Ngay cả một giọt nước cũng không đọng lại trên lá sen. Tương tự như thế, Đức Phật là Bậc Đạo Sư sống giữa thế giới rối rắm của nhục dục mà Ngài vượt lên khỏi nhục dục.

Ngài ở trong thế giới này nhưng ngay cả một ham muốn nhỏ nhặt nhất cũng không ảnh hưởng đến tâm trí Ngài. Đây là biểu tượng của hoa sen. Những bông hoa đẹp khác nhắc nhở tín đồ về những đức tính sáng ngờitốt đẹp của Đức Phật.

Ánh sáng được cúng dường trong trường hợp này là biểu tượng cho Giáo pháp luôn thắp sáng những vùng tối tăm của tâm thức và đem giác ngộ thay thế vô minh. Tăng già (của Bậc Giác ngộ) được biểu tượng bằng hương, bởi vì sự thành tựu giới đức của các vị ấy tỏa rộng mọi hành động của thân, khẩu, ý.

Sau khi đã nói về ý nghĩa của lòng tôn kính của người phật tử, bây giờ chúng ta diễn tảý nghĩa của từng ngôi báu. Tuy nhiên, cần phải nhấn mạnh trước rằng ba ngôi báu liên hệ nhau không thể tách rời ra được về mặt tu tậpchứng đắc. Vậy nên không thể có Pháp bảoTăng bảo nếu như không có một Đức Phật xuất hiện trước ở đời. Sự tương tục của Pháp tùy thuộc vào Tăng, nhân tố truyền bá Pháp.

Tăng thì tương tục nếu vẫn còn có những vị tu tậpchứng đắc Pháp. Không thể nói rõ rằng Phật bảo tùy thuộc Pháp bảo như thế nào. Sở dĩ như thế là vì chư Phật có xuất hiện ở đời hay không xuất hiện ở đời, Pháp bảo vẫn là mãi mãi chân thật. Thông thường, Pháp bảo được diễn tả là “phi thời gian”, không có một lúc nào là lần đầu tiên Pháp trở nên thật (như trong trường hợp các tôn giáo mắc phải) và cũng không có một lúc nào trong tương lai Pháp không còn là thật nữa. Khi nào còn có đời sống hữu tình thì Giáo pháp này hẳn cần thiết chứa đựng sự thật liên quan đến kinh nghiệm về cuộc đời (và không dính dáng gì tới những lý thuyết hay giáo điều).

Quả thực rằng pháp có thể có lúc bị tạm thời quên đi trong những khoảng thời gian cách quãng giữa những chứng đắc, nhưng ngay cả khi bị quên lãng, Pháp vẫn còn là thật và chờ đợi được phát hiện.

Người đã phát hiện ra tuệ giác cổ xưa, với tính viên mãn và sáng sủa của nó được gọi là một vị Phật, một chứng đắc tâm linh vượt lên tất cả mọi chứng đắc tâm linh. Như vậy quá dễ hiểu lời dạy của những hiền triết Phật giáo về sau này, những người đã nhân cách hóa tinh hoa của Pháp như là sự toàn hảo của trí tuệ mà gọi Pháp là Mẹ của chư Phật.
-----------------

(1) Trong Phật giáo, không có việc “thờ thần tượng”. Hình tượng Đức Phật trong các ngôi chùa gợi cho các Phật tử một số đức tính của Bậc Đạo SưGiáo pháp; hình tượng ấy làm cho họ tưởng niệm đến những đức tính như thế và do đó phát triển chúng trong chính họ. Hình tượng Đức Phật cũng hỗ trợ rất nhiều trong thiền định và có thể được sử dụng để làm an tịnh tâm vào lúc chết.

Lại nữa, không có sự cầu xin trong các tu viện Phật giáo. Người ta không cầu xin một Bậc Đạo Sư đã đạt cứu cánh Niết Bàn hơn 2500 năm rồi; người ta kính ngưỡng và tôn quý Ngài. Sự cầu xin phước lạc cho người ta hoàn toàn xa lạ đối với tư tưởng Phật giáo, tư tưởng Phật giáo vẫn nhằm thực hiện vô ngã.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 593)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 778)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1099)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1268)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 997)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1337)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 787)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 761)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 806)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 822)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 794)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 782)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 937)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 824)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 980)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 997)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 921)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 923)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 849)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1005)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 945)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 889)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 986)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 900)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 842)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 950)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 875)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1135)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 905)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1006)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1144)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1607)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1156)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1259)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1112)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 976)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 918)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 960)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 803)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1485)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1364)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1330)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1274)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1378)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1333)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1478)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1354)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1206)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1265)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1324)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant