Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vai Trò Của Tăng Thân

11 Tháng Mười Hai 201707:23(Xem: 7336)
Vai Trò Của Tăng Thân

VAI TRÒ CỦA TĂNG THÂN

Thích Trung Định

Vai Trò Của Tăng Thân

Có một câu nói thường được truyền tụng trong nhân gian rằng, “ăn cơm có canh tu hành có bạn” đã trở thành kim chỉ nam cho tất cả mọi hành giả tu hành. Câu nói này là thành quả của một sự đúc rút, kết tinh từ kinh nghiệm thực tế trong nếp sống thiền môn. Trên lộ trình tìm cầu chân lý cần phải có bạn hữu để tương trợ, dẫn dắt nhau đi đến đích cuối cùng.

Một câu nói khác cũng mang nội dung tương tự nhấn mạnh đến vai trò của tăng thân rằng: “Tăng ly chúng tăng tàn, hổ ly sơn hổ bại.” Vì sao Tăng ly chúng tăng tàn, hổ ly sơn hổ bại? Vì sao so sánh tăng với hổ mà không là một con vật khác? Hổ là chúa tể sơn lâm, tất cả mọi con thú khác khi thấy hổ thì đều sợ hãi, khiếp vía. Khi nói đến tăng là nói đến nhóm bốn người trở lên. Một người không thể thành tăng. Giống như một cây không thể thành rừng. Chúng ta có thể ví tăng thân như một khu rừng, trong đó các thành viên là những cây đứng thẳng bên nhau, mỗi cây mang một sắc thái, một chủng loại, một thứ bậc cao thấp, nhưng tất cả đều cùng đóng góp cho sự rậm rạp, lớn mạnh của khu rừng. “Một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao.” Khi thấy các cây đứng vững bên nhau như vậy, chúng ta có cái cảm giác của sự uy nghiêm, sự hùng vĩ của núi rừng.

Tăng đoàn cũng vậy, khi mọi thành viên của tăng đoàn sống thanh tịnh, hòa hợp, chánh niệm tĩnh giác, đồng học, đồng tu thì sẽ phát ra một năng lượng hùng tráng của sự vững chãi, thảnh thơi. Năng lượng của tăng thân là một năng lượng có khả năng che chở, và chuyển hóa. Mọi thành viên trong tăng thân đều có nhiệm vụ đóng góp vào việc phát khởi năng lượngsức mạnh tự nội. Sự đóng góp đó, nhằm mục đích xây dựng tăng thân vững mạnh. Việc xây dựng sự hài hòa, thanh tịnh trong tăng thân là công trình rất quí báu của người xuất gia cũng như Phật tử tại gia. Nếu người tu sĩ rời bỏ tăng thân của mình thì sẽ thất bại trong con đường tu tập, cũng như một con hổ bỏ rừng mà xuống đồng bằng thì thế nào cũng bị người ta vây bắt, làm thịt. Người tu sĩmột thế đứng vững như chúa sơn lâm, có tiếng nói hiệu quả như tiếng hổ rống, nhưng nếu người tu sĩ từ bỏ tăng thân, biệt chúng, thì thân phận của vị này cũng sẽ như một con hổ lìa rừng.

Mối quan hệ trong tăng thân là mối quan hệ hỗ tươngcần thiết. Người này soi sáng cho người kia và ngược lại. Người này yểm trợ cho người kia, đồng học, đồng tu, cùng sách tấn nhau để không bị khiếm khuyết, sứt mẻ trong giới hạnh. Nhờ mối quan hệ này mà tăng thân cùng nhau hỗ trợ để đưa đến thành tựu phạm hạnh, đó là mục tiêuchí nguyện cao cả của người xuất gia học đạo.

Theo tinh thần của Phật giáo, việc hành trì tu tậptùy thuộc vào sự nỗ lực cá nhân. Đức Phật luôn căn dặn chúng đệ tử rằng, hãy tự mình làm hòn đảo cho chính mình, chớ nương tự một ai khác, hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi. “Này Ananda, hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình, hãy tự mình nương tựa chính mình, chớ nương tựa một gì khác. Dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, chớ nương tựa một gì khác.” Tuy nhiên, trong một bài kinh ngắn nằm trong Tương ưng bộ, nhấn mạnh đến tầm quan trọng của tình bằng hữu. Đức Phật tuyên bố rằng tình bạn tâm linh không phải chỉ là ‘một nữa đời sống tâm linh’ nhưng là toàn thể đời sống đó. Nỗ lực để đạt đến sự toàn thiện trong đời sống tâm linh không phải chỉ là hành trình đơn độc, nhưng xảy ra tùy thuộc vào những liên hệ cá nhân chặt chẻ. Tình thân hữu tâm linh đem một chiều hướng nhân bản không thể tách rời vào việc thực hành Giáo phápgắn bó giữa những hành giả Phật giáo trong một cộng đồng đoàn kết hàng dọc giữa thầy và trò và hàng ngang giữa những người bạn cùng đi trên một con đường chung. Mỗi thành viên trong tăng thân là một sợi chỉ hồng xuyên suốt, thắt chặt nhau lại trong một mối liên kết, hỗ tương, yểm trợ để cùng nhau thành tựu phạm hạnh.

Nó cũng giống như cấu trúc của tám chi phần trong Bát chánh đạo. Tám chi của con đường không phải là những bước đi được thực hiện theo từng bước tuần tự, chi này theo sau chi kia. Chúng được mô tả theo nghĩa thích hợp, như là các phần tử, không phải là các bước đi. Tối ưu nhất, cả tám chi phần có mặt cùng một lúc, mỗi chi phần có sự đống góp riêng biệt, giống như tám sợi đan xem của dây cáp quấn vào nhau để tạo nên sức mạnh tối đa. Mối liên hệ trong tăng thân và tám chi phần của Bát chánh đạo tạo nên sức mạnh hùng vĩ được thấy rõ qua đoạn kinh văn:

“Một thời, Thế Tôn trú giữa các dân chúng Sakka, tại thị trấn của dân chúng Sakka tên là Sakkara. Rồi Tôn giả Ananda đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi một bên, Tôn giả Ananda bạch Thế Tôn:

- Một nửa Phạm hạnh này, bạch Thế Tôn, là thiện bạn hữu (kalyāsamittatā), thiện bạn đãng (kalyānasahāyatā), thiện thân tình (kalyāsam-pavankatā).

- Chớ có nói vậy, này Ananda! Chớ có nói vậy, này Ananda! Toàn bộ Phạm hạnh này, này Ananda, là thiện bạn hữu, thiện bạn đãng, thiện thân tình. Với Tỷ-kheo thiện bạn hữu, thiện bạn đãng, thiện thân tình, này Ananda, thời được chờ đợi Thánh đạo Tám ngành được tu tập, Thánh đạo Tám ngành được làm cho viên mãn.

Và này Ananda, thế nào là Tỷ-kheo thiện bạn hữu, thiện bạn đãng, thiện thân tình, tu tập và làm cho viên mãn Thánh đạo Tám ngành? Ở đây, này Ananda, Tỷ-kheo tu tập chánh tri kiến liên hệ đến viễn ly, liên hệ đến ly tham, liên hệ đến đoạn diệt, hướng đến từ bỏ. Tỷ-kheo tu tập chánh tư duy... tu tập chánh ngữ... tu tập chánh nghiệp... tu tập chánh mạng... tu tập chánh tinh tấn... tu tập chánh niệm... tu tập chánh định liên hệ đến viễn ly, liên hệ đến ly tham, liên hệ đến đoạn diệt, hướng đến từ bỏ. Như vậy, này Ananda, là Tỷ-kheo thiện bạn hữu, thiện bạn đãng, thiện thân tình, tu tập Thánh đạo Tám ngành, làm cho sung mãn Thánh đạo Tám ngành.

Này Ananda, chính với pháp môn này, các Ông cần phải hiểu thế nào toàn bộ Phạm hạnh này là thiện bạn hữu, thiện bạn đãng, thiện thân tình. Do Ta lấy thiện làm bạn hữu, này Ananda, nên các chúng sanh bị sanh được giải thoát khỏi sanh; các chúng sanh bị già được giải thoát khỏi già; các chúng sanh bị chết được giải thoát khỏi chết; các chúng sanh bị sầu, bi, khổ, ưu, não được giải thoát khỏi sầu, bi, khổ, ưu, não. Chính với pháp môn này, này Ananda, các Ông cần phải hiểu thế nào toàn bộ Phạm hạnh này là thiện bạn hữu, thiện bạn đãng, thiện thân tình.”

(Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt, Tương Ưng Bộ - Samyutta Nikāya, Tập V - Thiên Đại Phẩm, Tương Ưng Đạo (a), Phẩm Vô Minh)

Sức mạnh của tăng thân là sức mạnh của sự hòa hợp, thanh tịnh. Khi nhìn một tăng đoàn hòa hợp thanh tịnh như vậy thì sẽ có ảnh hưởng rất lớn đối với người tiếp cận. Vua Ba Tư Nặc là một trong những người đã xác nhận điều đó. Một hôm nhà Vua bạch với Phật rằng: “Bạch Thế Tôn, mỗi khi con nhìn tăng đoàn của Ngài, thì con có niềm tin nhiều hơn ở nơi Ngài.” Câu nói này bao hàm một ý nghĩa rằng, khi con nhìn Phật con đã có niềm tin mãnh liệt, nhưng khi nhìn vào Tăng đoàn thì con lại có nhiều niềm tin hơn ở nơi Ngài. Tại vì Tăng đoàn này do đức Phật thiết lập, là sản phẩm do đức Phật xây dựng. Tăng thân của Đức Thế Tôn là đoàn thể sáng ngời, vững chãi, thảnh thơichúng ta đáng quay về nương tựa. Cho nên khi quy y Phật thì cũng quy y Phápquy y Tăng. Ba pháp quy y này không tách rời nhau, mà là một chỉnh thể thống nhất, quý báu nhất giữa cõi đời. Do đó, vai trò của tăng thân không chỉ có ảnh hưởng bằng một nữa mà là toàn thể của đời sống phạm hạnh. Phá hòa hợp tăng là một trong những trọng tội. Thành ra, mỗi thành viên của Tăng đều ý thức được giá trị cao quý này để nỗ lực xây dựng tăng thân.

Tạp chí Văn Hóa Phật Giáo số 286
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 919)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1239)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 707)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 679)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 751)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 763)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 744)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 729)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 885)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 770)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 929)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 932)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 854)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 865)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 807)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 954)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 887)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 830)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 918)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 840)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 793)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 893)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 822)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1076)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 855)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 941)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1087)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1564)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1099)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1168)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1045)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 912)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 861)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 892)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 746)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1422)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1296)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1259)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1207)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1326)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1257)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1402)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1280)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1141)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1200)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1249)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1232)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1356)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(Xem: 1253)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant