Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 3: Thế Giới Vật Chất Và Phi Vật Chất

21 Tháng Giêng 201917:34(Xem: 4288)
Chương 3: Thế Giới Vật Chất Và Phi Vật Chất
TRÁI TIM RỘNG MỞ
THỰC TẬP BI MẪN TRONG ĐỜI SỐNG HÀNG NGÀY
Nguyên bản: An Open Heart: Practicing Compassion in Everyday Life

Tác giả
: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Thông dịch: Thupten Jinpa
Biên tập và nhuận sắc: Nicolas Vreeland
Chuyển ngữTuệ Uyển

trai tim rong mo

CHƯƠNG 3: THẾ GIỚI VẬT CHẤT VÀ PHI VẬT CHẤT

 

Tuesday, October 02, 2012/2:48:12 PM

 

Đến lúc này chúng ta đã thảo luận sự thực tập tâm linh là gì trong ý nghĩa của Đạo Phậtvấn đề chúng ta hành động như thế nào để thay đổi những thói quen tinh thần cũ kỷ và phát triển những thói quen mới như thế nào, những thứ đức hạnhChúng ta làm như thế với phương tiện hành thiền, một tiến trình làm quen chính mình với những đức hạnh đem đến niềm hạnh phúc của chúng ta.  Điều này cho phép chúng ta hiện thân hay sống với những đức hạnh này và nhận thấy một cách rõ ràng những chân lý thậm thâm ẩn tàng trong chúng ta trong đời sống hàng ngày của chúng ta.  Bây giờ chúng ta sẽ thẩm tra những thể trạng tinh thần được phát sinh trong cùng cách ấy như thế nào, là những đối tượng được phát sinh trong thế giới vật lý.

 

Trong thế giới vật lý của chúng ta, mọi vật hình thành sự hiện hữu bằng sự phối hợp năng lực của các nguyên nhânđiều kiện.  Một cọng giá có thể sinh trưởng do bởi hạt giống, nước, ánh sáng, và đất vườn màu mở.  Không có những yếu tố này, cọng giá hay mầm sống không có điều kiện cần thiết để nẩy mầm và xuyên thủng mặt đất.  Trong cùng cách ấy, mọi vật chấm dứt tồn tại khi chúng gặp những  hoàn cảnhđiều kiện cho sự kết thúc của chúng.  Nếu sự vật có thể tiến  hóa không cần nguyên nhân, thế thì mọi thứ hoặc là sẽ tồn tại bất diệt trong cùng thể trạng, khi mọi vật sẽ không cần các nguyên nhânđiều kiện, hay hoàn toàn không có điều gì sẽ hình thành sự hiện hữu, không có cách gì cho bất cứ điều gì xảy ra.  Hoặc là cọng giá hoàn toàn không thể hình thành sự hiện hữuVì vậy, chúng ta có thể đánh giá đúng rằng nguyên nhân là một nguyên tắc phổ quát.

 

Trong Phật Giáo, chúng ta nói về hai loại nguyên nhân.  Thứ nhất là những nguyên nhân chính yếu, năng tác nhân.  Trong ẩn dụ trên, điều này bao gồm hạt giống, là điều với sự phối hợp của những điều kiện nào đó (nguyên nhân phối hợp, câu sanh nhân), phát sinh một hậu quả trong sự tương tục tự nhiên của chính nó, nói cách khác, cọng giá.  Những điều kiện cho phép hạt giống phát sinh thành cọng giá của nó - nước, ánh sáng, đất, và phân - sẽ được xem như những nguyên nhân hay điều kiện phối hợp của cọng giá.  Rằng mọi vật sinh trưởng trong sự lệ thuộc trên những nguyên nhânđiều kiện, cho dù là chính yếu hay phối hợp, không phải do bởi năng lực hành động của con người hay do bởi những phẩm hạnh phi thường của một Đức Phật.  Đấy đơn giản là cách mà mọi vật hiện hữu.

 

Trong Phật Giáo, chúng ta tin rằng những thứ phi vật chất xử sự trong cùng cách như những thứ vật chấtĐồng thời, từ quan điểm của Phật Giáo, khả năng của chúng ta để nhận thức vấn đề vật chất không thể cung ứng căn bản cụ thể cho kiến thức của chúng ta về thế giới.  Một thí dụ về một thứ phi vật chất có thể là khái niệm về thời gianThời gian đi đôi với thế giới vật lý nhưng không thể được xem như tồn tại trong bất cứ cung cách vật chất nào.  Và cũng có ý thức, ý nghĩa bằng sự nhận thức mọi vậtkinh nghiệm khổ đau cùng vui sướngÝ thức được xem như không phải vật chất.

 

Mặc dù không phải vật chất, nhưng thể trạng của tâm thức chúng ta cũng được hình thành bởi nguyên nhânđiều kiện, y như cách mà mọi vật trong thế giới vật chất hiện hữu.  Do vậy, điều quan trọng là phát triển sự hiểu biết với cơ cấu của nhân quảNguyên nhân chính của thể trạng hiện tại của tâm thứcthời khắc trước của tâm thức.  Vì thế, mỗi thời khắc của tâm thức phục vụ như nguyên nhân chính yếu của sự tỉnh thức sau đó.  Sự kích thích được chúng ta trải nghiệm, những hình sắc chúng ta thưởng thức hay những ký ức chúng ta phản ứng, là những điều kiện phối hợp làm thành đặc trưng thể trạng của tâm thức chúng ta.  Khi với vấn đề ấy, bị điểu khiển bởi các điều kiện, chúng ta làm ra kết quả sản phẩm: tâm thức chúng ta.  Việc hành thiền phải là một phương pháp thiện xảo của chỉ việc này mà thôi, đấy là áp dụng những điều kiện đặc thù tác động đến tâm thức chúng ta nhằm để đem đến những hiệu quả mong đợi, một tâm thức đức hạnh hơn.

 

Một cách căn bản, việc này hoạt động trong hai cách.  Một cách xảy ra khi một điều kiện kích thích hay phối hợp cho sinh khởi một thể trạng của tâm thức trong cùng giải pháp.  Một thí dụ của động lực này có thể là khi chúng ta không tin tường người nào đó và thấy rằng chỉ tư tưởng người ấy thôi đã gây ra thêm cảm giác đen tối.  Những thể trạng tâm thức khác đối kháng với nhau, khi chúng ta trau dồi một cảm giác tự tin, do thế chạm trán với sự chán nản hay đánh mất sự tự tin.  Khi chúng ta nhận ra các ảnh hưởng của việc trau dồi những phẩm chất tinh thần khác nhau, chúng ta sẽ thấy chúng ta có thể đem đến những thay đổi trong thể trạng tâm thức của chúng ta như thế nào.  Chúng ta phải nhớ rằng đây là một cách đơn giảntâm thức hoạt độngChúng ta có thể sử dụng cơ cấu này để tiến xa hơn sự phát triển tâm linh của chúng ta.

 

Như chúng ta đã thấy trong chương cuối cùng, thiền phân tích là một tiến trình của việc áp dụng và trau dồi một cách cẩn thận những tư tưởng đặc thù làm nổi bật những thể trạng tích cực của tâm thứcgiảm bớt cùng loại trừ những tư tưởng tiêu cực một cách căn bản.  Đây là vấn đề cơ cấu của nguyên nhânhiệu quả được sử dụng một cách xây dựng như thế nào.

 

Tôi tin tưởng một cách sâu sắc rằng sự thay đổi tâm linh thật sự được hiện hữu không chỉ bằng việc cầu nguyện hay mong ước mà tất cả những khía cạnh tiêu cực của tâm thức biến mất và tất cả những phương diện tích cực của tâm thức rộ nở. Nhưng chỉ qua nổ lực phối hợp, một nổ lực căn cứ trên sự thấu hiểu về vấn đề tâm thức và những tình trạng cảm xúctâm lý đa dạng của nó tương tác như thế nào, như thế mới đem đến một tiến trình tâm linh chân thật.  Nếu chúng ta mong ước giảm thiểu năng lực của những cảm xúc tiêu cực, chúng ta phải tìm kiếm những nguyên nhân cho sinh khởi chúng.  Chúng ta phải hành động để loại bỏ và nhổ gốc những nguyên nhân ấy.  Đồng thời, chúng ta phải làm nổi bật những năng lực tinh thần đối kháng với chúng; những gì chúng ta có thể gọi đó là những phương pháp đối trị hay phương thuốc giải.  Đây là vấn đề một thiền giả phải dần dần mang đến một sự chuyển  hóa mà người ấy tìm cầu.

 

Chúng ta làm việc này như thế nào?  Trước nhất, chúng ta xác định những nhân tố đối kháng với đức hạnh đặc thù của chúng ta.  Nhân tố đối kháng khiêm tốn sẽ là tự hào hay kiêu căng.  Nhân tố đối kháng của rộng lượngkeo kiệt.  Sau khi xác định những nhân tố này, chúng ta phải nổ lực để làm chúng yếu kém cũng như xói mòn chúng.  Trong khi chúng ta tập trung trên những nhân tố đối kháng này, chúng ta cũng phải thắp lên ngọn đuốc của những phẩm chất đức hạnhchúng ta hy vọng làm nổi bật.  Khi chúng ta cảm thấy keo kiệt quá, chúng ta phải thực hiện một nổ lực bổ sung để rộng lượng.  Khi chúng ta cảm thấy không nhẫn nhục hay phán xét, chúng ta phải hoạt động tối đa để nhẫn nại.

 

Khi chúng ta nhận ra vấn đề các tư tưởng của chúng ta có những ảnh hưởng đặc thù đối với những tình trạng tâm lý của chúng ta như thế nào, chúng ta có thể chuẩn bị chính mình cho chúng.  Chúng ta sau đó sẽ biết  rằng một tình trạng của tâm thức phát khởi, chúng ta phải chạm trán nó trong một cung cách đặc thù nào đó; và nếu một ý thức khác khởi sinh, chúng ta phải hành động một cách thích đáng.  Khi chúng ta thấy tâm thức mình trôi dạt theo chiều hướng của những tư tưởng giận dữ đối với ai đấy ta không thích, chúng ta phải tự nắm bắt chính mình; chúng ta phải thay đổi tâm thức mình bằng việc thay đổi chủ đề.  Thật khó khăn để ghìm lại một cơn giận dữ khi nó bị kích động ngoại trừ chúng ta đã từng rèn luyện tâm thức trước đây rồi đối với việc hồi tưởng những nổi bực bội về ảnh hưởng của chúng, những tư tưởng như vậy sẽ làm cho chúng ta.  Do vậy điều căn bảnchúng ta phải bắt đầu việc rèn luyện trong nhẫn nhục một cách tĩnh lặng, không phải trong khi trải nghiệm sân hậnChúng ta phải  gợi lại trong chi tiết vấn đề khi sân hận chúng ta đánh mất sự hòa bình của tâm thức như thế nào, và chúng ta trở nên khó chịu như thế nào khi những tư tưởng như vậy ở chung quanh chúng ta.  Đó là bằng suy nghĩ bền bĩ và trường kỳ trong thái độ này mà cuối cùng chúng ta mới có thể kiềm chế không giận dữ.

 

Một ẩn sĩ Tây Tạng giới hạn việc thực tập của ông trong việc nhìn vào tâm thức của ông.  Ông vẽ một dấu đen trên tường trong phòng của ông bất cứ khi nào ông có một tư tưởng phi đạo đức.  Khởi đầu bức tường của ông toàn đen; tuy nhiên, khi ông trở nên chánh niệm hơn, tư tưởng của ông trở nên đạo đức hơn và những dấu trắng bắt đầu thay thế cho những dấu đen.  Chúng ta phải áp dụng sự chánh niệm tương tự như vậy trong đời sống hàng ngày của chúng ta.

 

Friday, October 05, 2012 / 9:52:01 AM


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 595)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 779)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1100)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1268)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 997)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1339)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 788)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 762)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 807)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 823)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 802)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 790)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 947)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 834)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 988)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 1007)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 929)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 931)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 858)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1014)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 954)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 897)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 995)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 910)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 850)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 958)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 884)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1143)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 914)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1016)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1154)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1616)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1164)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1260)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1113)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 977)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 918)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 960)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 804)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1486)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1366)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1330)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1274)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1379)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1333)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1478)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1355)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1208)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1267)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1326)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant