Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 4: Nghiệp

21 Tháng Giêng 201917:36(Xem: 3428)
Chương 4: Nghiệp
TRÁI TIM RỘNG MỞ
THỰC TẬP BI MẪN TRONG ĐỜI SỐNG HÀNG NGÀY
Nguyên bản: An Open Heart: Practicing Compassion in Everyday Life

Tác giả
: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Thông dịch: Thupten Jinpa
Biên tập và nhuận sắc: Nicolas Vreeland
Chuyển ngữTuệ Uyển

trai tim rong mo

CHƯƠNG 4:  NGHIỆP

 

 

Friday, October 05, 2012

 

Khuynh hướng cứu kính như những hành giả Phật Giáođạt đến sự giác ngộ tròn vẹn và thể trạng viên dung của một vị Đức PhậtPhương tiện chúng ta cần đến là một thân thể con người với một tâm thức lành mạnh.

 

Hầu hết mọi người chúng ta cho sự sinh sống hiện hữu như những con người khỏe mạnh một cách tương đối như đương nhiên.  Trong thực tế, đời sống con người thường được liên hệ trong kinh điển Phật Giáo như cực kỳ hiếm hoi và quý giá.  Đấy là kết quả của một sự tích tập vô vàn đức hạnh, được tích lũy bởi chúng ta qua vô lượng kiếp sống.  Mỗi con người đã dâng hiến một tổng lượng nổ lực vĩ đại để đạt được tình trạng thân thể này.  Tại sao cuộc sống con ngườigiá trị như vậy?  Bởi vì nó cống hiến cho chúng ta một cơ hội vĩ đại nhất cho việc trưởng dưỡng tâm linh: việc theo đuổihạnh phúc cho chính mình và cho những người khác.  Thú vật đơn giản là không có khả năng để theo đuổi đạo đức một cách kiên cường trong cung cách như những con người thực hiện.  Chúng là nạn nhân của sự si mê của chính chúng.  Chúng ta do thế phải đánh giá đúng phương tiện đáng giá như những con người và cũng phải làm tất cả những gì chúng ta có thể làm để có thể bảo đảm rằng chúng ta sẽ được tái sanh như những con người trong kiếp sống tới.  Mặc dù chúng ta tiếp tục ngưỡng mộ việc đạt đến sự giác ngộ hoàn toàn, nhưng chúng ta nên biết rằng con đường đến Quả Phật là con đường dài lâu và vì thế chúng ta cũng phải thực hiện những sự chuẩn bị ngắn  hạn.

 

Như chúng ta đã thấy, để bảo đảm tái sanh như một con người với khả năng toàn vẹn để theo đuổi sự thực tập tâm linh, trước nhất ta phải theo đuổi con đường đạo đức.  Điều này, theo giáo thuyết Đạo Phật, đòi hỏi phải tránh mười hành vi bất thiệnKhổ não được tạo ra bởi mỗi trong những hành vi này có nhiều trình độ.  Để cho chúng ta được thuyết phục hơn đối với việc chừa bỏ chúng, chúng ta phải thấu hiểu những hoạt động của luật nhân quả, được biết như nghiệp báo.

 

Karma, nghiệp có nghĩa là "hành động", liên hệ đến một hành động mà chúng ta đã tiến hành cũng như hậu quả của nó.  Khi chúng ta nói về nghiệp giết hại, hành động tự nó là lấy mạng sống của một chúng sanh khác.  Những bao  hàm rộng hơn của hành động này, cũng là bộ phận của nghiệp giết hại, là sự khổ não mà nó tạo ra cho nạn nhân cũng như nhiều kẻ yêu thươnglệ thuộc trên chúng sanh bị giết  Nghiệp báo của hành động này cũng bao gồm những tác động nào đó trên người giết hại thật sự.  Những nghiệp báo này không giới hạn trong kiếp sống này.  Thật sự, tác động của một hành vi bất thiện lớn lên với thời gian, vì thế cho nên một hành động không thương xót của kẻ giết hại nhẫn tâm trong việc lấy đi mạng sống con người đã bắt đầu trong kiếp sống quá khứ của việc đơn giản là không quan tâm đến sự sống của kẻ khác dường như không quan trọng như những con thú hay côn trùng.

 

Thường thì một kẻ giết người sẽ không tức thời tái sanh như một con người.  Những hoàn cảnh mà kẻ giết một người khác quyết định sự khốc liệt của những hậu quả.  Một kẻ giết người tàn bạo, vi phạm tội ác với sự vui sướng, thì thường phải sinh với nổi khổ não vô vàn trong cảnh giới tồn tạichúng tôi gọi là địa ngục.  Một trường hợp ít nghiêm trọng hơn - hãy nói là một sự giết hại để tự vệ - có thể có nghĩa là sự tái sanh trong địa ngục với sự khổ não ít hơn.  Những hậu quả kém hơn của những hành vi bất thiện có thể đưa đến việc sinh ra như một con thú, thiếu khả năng để cải thiện tinh thần hay tâm linh.

 

Một chúng sanh khi cuối cùng được sinh ra như một con người, những hậu quả của các hành vi bất thiện đủ loại quyết định những hoàn cảnh của đời sống con người ấy trong những cách khác nhau.  Việc giết hại trong cuộc đời quý giá khiến tuổi thọ ngắn lại và bệnh tật đủ thứ.  Nó cũng đưa đến khuynh hướng giết hại, bảo đảm sự khổ não hơn trong những kiếp sống tương lai.  Tương tự thế, việc trộm cắp làm cho người ấy thiếu thốn và bị trộm cắp lại; nó cũng tạo ra một khuynh hướng trộm cắp trong tương lai.  Tà dâm, chẳng hạn như ngoại tình đưa đến kết quả trong những đời sống tương lai mà trong cuộc sống lứa đôi, ta không được tin tưởng và ta sẽ khổ đau với sự không chung thủy và bị phản bội.  Đây là một số tác động của ba hành vi bất thiệnchúng ta hành động với thân thể.

 

Trong bốn hành vi bất thiện về lời nói, nói dối đưa đến một đời sống mà trong ấy người khác sẽ nói với ta những lời xấu ác.  Nói dối cũng thành lập một khuynh hướng dối trá trong những kiếp sống tương lai, cũng như những dịp bị lừa dối và không được tin tưởng khi ta nói lời chân thật.  Những hậu quả trong các kiếp sống tương lai về nói lời chia rẻ kể cả việc cô độc và một khuynh hướng gây sự bất hòa trong đời sống của người khác.  Nói lời độc ác sinh ra sự chửi rủa người khác và đưa đến thái độ giận dữ.  Nói lời vô ích làm người khác không lắng nghe và đưa người ta đến chỗ nói liên tục.

 

Cuối cùng, những hậu quả nghiệp báo gì của ba hành vi bất thiện về tâm ý?  Đây là những khuynh hướng bất thiện quen thuộc nhất của chúng ta.  Sự thèm muốn (tham) đưa ta đến mãi không hài lòng.  Sự hiểm độc ác tâm (sân) làm chúng ta sợ hãi và đưa chúng ta đến việc làm tổn hại kẻ khác.  Quan điểm sai lầm (si) chấp chặc sự tin tưởng mâu thuẩn với chân lý, là điều đưa đến khó khăn trong sự thấu hiểu và chấp nhận các sự thậtchấp trước một cách ngoan cố vào những quan điểm sai lầm.

 

Đây chỉ là một ít thí dụ về những cành lá của bất thiệnĐời sống hiện tại của chúng ta là kết quả từ nghiệp báo của chúng ta, những hành vi trong quá khứHoàn cảnh tương lai của chúng ta, điều kiện mà trong ấy chúng ta sẽ được sinh ra, những cơ hội chúng ta sẽ có hay không có để làm tốt đẹp hơn tình trạng của chúng ta trong đời sống, sẽ tùy thuộc trong nghiệp nhân chúng ta trong kiếp sống này, những hành vi hiện tại.  Mặc dù hoàn canh hiện tại đã được quyết định bởi thái độ quá khứ, nhưng chúng ta thật sự chịu trách nhiệm cho những hành vi hiện tại của chúng taChúng ta có khả năng và trách nhiệm để lựa chọn để hướng những hành vi của chúng ta trên con đường đức hạnh.

 

Khi chúng ta lượng định một hành vi đặc thù nào đó, để quyết định nó là đạo đức hay cao cả, sự bình phẩm của chúng ta nên là phẩm chất của động cơ.  Khi người nào đó thực hiện cẩn trọng một quyết định không trộm cắp, nếu người ấy được động viên đơn thuần bởi sự sợ hãi bị bắt và bị trừng phạt bởi luật pháp, thật nghi ngờ rằng việc thực hành như vậy là có ở trong quyết tâm của một hành vi đạo đức hay không, vì sự quan tâm đạo đức không sai khiến sự chọn lựa của người ấy.

 

Một thí dụ khác, quyết tâm không trộm cắp có thể được thúc đẩy bởi sự sợ hãi dư luận công chúng: "Bạn bè và hàng xóm tôi sẽ nghĩ gì? Tất cả sẽ khinh bỉ tôi, tôi sẽ trở thành một người bị ruồng bỏ."  Mặc dù hành động của việc thực hiện quyết tâm có thể là tích cực, nhưng nó có phải là một hành vi đạo đức hay không thì xét cho cùng là đáng nghi ngờ.

 

Bây giờ, cùng sự quyết tâm có thể được thực hiện với suy nghĩ "Nếu tôi trộm cắp, tôi đang chống lại luật thánh thần của Thượng Đế."  Người khác có thể nghĩ, "Trộm cắp là bất thiện; nó làm cho người khác đau khổ."  Khi một quyết tâm như vậy thúc đẩy ta, quyết tâm ấy là đạo đức hay đức hạnh: nó cũng là cao cả.  Trong sự thực tập giáo thuyết nhà Phật, nếu quyết tâm tiềm tàng trong việc tránh một hành vi bất thiện là vì nó sẽ cản trở sự đạt đến thể trạng siêu việt khổ não, một sự kềm chế như vậy là một hành vi đạo đức.

 

Việc hiểu biết những khía cạnh chi tiết về hoạt động của nghiệp báo được nói là chỉ giới hạn trong những tâm thức toàn tri (chỉ có Đức Phật mới có thể thấu hiểu tường tận hoạt động của tâm thức hay nhân quả).  Thật là ngoài tầm nhận thức thông thường trong việc nắm bắt trọn vẹn những cơ cấu vi tế của nghiệp báo.  Đối với chúng ta để sống theo tuyên bố của Đức Phật về nghiệp báo đòi hỏi một mức độ tin tưởng trong giáo huấn của Ngài.  Khi Ngài nói rằng việc giết hại đưa đến một đời sống ngắn ngủi, trộm cắp đưa đến nghèo khó, thật sự không có cách nào để chứng minh rằng Ngài đúng.  Tuy nhiên, những vấn đề như vậy không nên được tiếp nhận trong một niềm tin mù quáng.   Trước nhất, chúng ta phải thiết lập cơ sở vững chắc của chúng ta về đối tượng niềm tin: Đức Phậtgiáo lý của Ngài, Giáo PhápChúng ta phải đưa giáo lý của Ngài vào sự nghiên cứu kỷ lưỡng của lý tríthực tế.  Bằng sự  khảo sát những chủ đề Giáo Pháp ấy chúng có thể được chứng minh  bởi phương tiện của suy luận hợp lý - chẳng  hạn giáo lý của Đức Phật về vô thườngtánh không, những điều chúng ta sẽ khám phá trong Chương 13, "Tuệ Trí" - và thấy chúng  là đúng đắn, niềm tin của chúng ta trong những thứ ít chứng cứ giáo lý, như hoạt động của nghiệp báo, gia tăng một cách tự nhiên.  Khi chúng ta tìm kiếm sự chỉ bảo, chúng ta đi đến người nào đấy mà chúng ta xem là đáng giá trong việc ban cho lời chỉ dẫn.  Càng nhiều chứng cớ về sự phán xét tốt lành mà những thiện tri thức thông tuệ cho chúng ta, chúng ta càng tiếp nhận những lời chỉ dẫn ấy một cách nghiêm túc hơn.  Sự phát triển của chúng ta về những gì tôi có thể gọi là "niềm tin thông tuệ" trong lời khuyên của Đức Phật cũng giống như vậy.

 

Tôi tin rằng một kinh nghiệm nào đó, một pháp vị thực hành nào đó, là cần thiết để chúng ta phát sinh một niềm tin chân thành sâu thẩm.  Dường như có hai loại kinh nghiệm khác nhau.  Có những vị thánh nhân thực chứng cao độ những người dường như sở hữu những phẩm chất không thể đạt đến.  Rồi thì cũng có những kinh nghiệm trần tục hơn mà chúng tachúng tathể đạt được qua sự thực hành hàng ngày.  Chúng ta có thể phát triển một nhận thức nào đó về vô thường, bản chất ngắn ngủi của cuộc sống.  Chúng ta có thể đi đến nhận ra bản chất tàn phá của những cảm xúc phiền nãoChúng ta có thể có một cảm nhận rộng rãi hơn về lòng từ bi đối với người khác hay kiên nhẫn hơn khi chúng ta phải chờ đợi trong một hàng dài.

 

Những kinh nghiệm rõ ràng như thế đem đến cho ta một cảm giác toại nguyệnvui thích, và niềm tin của chúng ta trong tiến trình mà nhờ đó những kinh nghiệm này đi đến lớn mạnh.  Niềm tin của chúng ta vào vị thầy, người hướng dẫn chúng ta đến những kinh nghiệm này cũng được tăng cường, cũng như sự tin chắc của chúng ta vào giáo thuyết mà vị ấy theo đuổi.  Và cũng từ những kinh nghiệm hiển nhiên như vậy, chúng ta có thể biết qua trực giác rằng tiếp tục thực hành có thể đưa đến những thành quả thậm chí siêu tuyệt hơn nữa, những kết quả bất hủ đạt được bởi những thánh nhân quá khứ.

 

Niềm tin với lý trí như vậy từ một pháp vị nào đó của việc thực hành tâm linh, cũng giúp làm mạnh mẽ niềm tin của chúng ta trong sự giải thích của Đức Phật về những hành hoạt của nghiệp báo.  Và điều này, kết quả là, cho chúng ta quyết tâm chấm dứt những hành vi bất thiện vì chúng có thể đưa chúng ta đến khổ não hơn.  Vì thế niềm tin với lý trí rất hữu ích trong việc hành thiền, sau ngay cả một tuệ giác nội quán nhỏ bé nhất vừa khơi dậy vào trong chủ đề chúng ta đã học hỏi, để dành thời gian nhiều hơn nữa vào trong việc nhận ra rằng chúng ta đã có tuệ giác này và sự hiểu biết này từ nguồn gốc mà nó phát sinh.  Sự quán chiếu như vậy phải được nghĩ như một bộ phận của việc hành thiền.  Nó giúp làm vững mạnh nền tảng của niềm tin trong Ba Ngôi Quý Báu - và giúp chúng ta tiến tới trong việc thực hành.  Nó cho chúng ta quyết tâm để tiếp tục.

 

Friday, October 12, 2012 / 11:11:38 AM

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2627)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2512)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2319)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2630)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2414)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3220)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2298)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2383)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2512)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2451)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2520)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2172)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2561)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3028)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2629)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2676)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 2948)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2523)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2557)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4052)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2757)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3028)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3283)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2274)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2489)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2778)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 2978)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2852)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2597)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2608)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3175)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2585)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2261)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2367)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2464)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2581)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2666)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2710)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3248)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2542)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2117)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2569)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2034)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2801)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2880)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2907)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2688)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 2483)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2758)
Đời sống của con người thọ mạng nhiều lắm chỉ trên dưới trăm năm. Trong chuỗi thời gian này con người hưởng hạnh phúc không bao nhiêu,
(Xem: 2333)
Đạo đứccăn bản làm người. Một khi có đạo đức rồi, chúng ta mới có thể đứng vững được.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant