Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 6: Sự Bao LaThậm Thâm: Hai Khía Cạnh Của Con Đường

21 Tháng Giêng 201917:44(Xem: 3964)
Chương 6: Sự Bao La Và Thậm Thâm: Hai Khía Cạnh Của Con Đường
TRÁI TIM RỘNG MỞ
THỰC TẬP BI MẪN TRONG ĐỜI SỐNG HÀNG NGÀY
Nguyên bản: An Open Heart: Practicing Compassion in Everyday Life

Tác giả
: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Thông dịch: Thupten Jinpa
Biên tập và nhuận sắc: Nicolas Vreeland
Chuyển ngữTuệ Uyển

trai tim rong mo

CHƯƠNG 6:  SỰ BAO LATHẬM THÂM:
HAI KHÍA CẠNH CỦA CON ĐƯỜNG

 

Tuesday, October 16, 2012

 

Dọc theo hành trình tâm linh trong Đạo Phật, có hai khía cạnh của con đường phản chiếu hai loại thực hành riêng biệt mà chúng ta phải dấn thân.  Mặc dù Đức Phật nói cả hai, nhưng chúng đã trải qua hàng thế kỷ từ thầy đến trò trong hai hệ thống truyền thừa riêng biệt.  Tuy nhiên, giống như hai cánh của con chim, cả hai đều cần thiết khi chúng ta dấn mình vào hành trình đến giác ngộ, đấy là thể trạng mà chúng ta giải thoát khỏi khổ não cho riêng mình mà thôi hay thể trạng giác ngộ cứu kính của Quả Phật mà chúng ta tầm cầu nhằm để làm lợi ích cho tất cả chúng sanh.

 

Cho đến bây giờ, tôi đã tập trung diễn tả một cách rộng rãi "sự bao la".  Sự thực tập này thường được liên hệ như khía cạnh "phương pháp" và liên hệ một cách đặc biệt đến việc khai mở trái tim của chúng ta, của lòng bi mẫntừ ái, cũng như những phẩm chất như rộng lượngnhẫn nhục mở rộng từ một trái tim từ ái.

 

Ở đây, việc rèn luyện của chúng ta liên hệ đến việc làm nổi bật những phẩm chất đức hạnh trong khi làm giảm thiểu những khuynh hướng bất thiện.

 

Khai mở trái tim có nghĩa là gì?  Trước tiên nhất, chúng ta thấu hiểu rằng ý tưởng về trái tim là một ẩn dụ.  Trái tim được nhận thức trong hầu hết mọi nền văn hóa là dòng suối của bi mẫn, từ ái, thông cảm, chánh trực, và trực giác hơn chỉ đơn thuần là một trách nhiệm cơ năng cho việc bơm máu tuần hoàn trong cơ thể.  Tuy nhiên, trong thế giới quan của Đạo Phật, cả hai khía cạnh của con đường được thấu hiểu là xảy ra trong tâm thức.   Lạ thay, quan điểm của Đạo Phật, tâm thức tọa lạc ở giữa ngực .  Một trái tim khai mở là một tâm thức khai mở.  Một sự thay đổi của trái tim là một sự thay đổi của tâm thứcTuy thế, khái niệm về trái tim của chúng ta cung cấp một khí cụ lợi ích, nếu tạm thời, khi cố gắng để thấu hiểu sự phân biệt giữa khía cạnh "bao la" và "thâm sâu" của con đường.

 

Khía cạnh kia của sự thực tập là "tuệ trí", cũng được biết như sự "thâm sâu".  Ở đây trong thế giới của đầu óc, nơi sự thấu hiểu, phân tích, và nhận thức quyết định là những khái niệm chủ đạo.  Trong khía cạnh tuệ trí của con đường, chúng ta làm việc để làm sâu sắc sự thấu hiểu của chúng ta về vô thường, bản chất khổ não của sự tồn tại sinh tử, và thể trạng thật sự của vô ngã. Bất cứ  người nào thì những tuệ giác này có thể cần đến nhiều kiếp sống để tìm  hiểu một cách trọn vẹnTuy nhiên, chỉ cần nhận ra bản chất vô thường của mọi vật thì chúng ta có thể vượt thắng sự chấp trước của chúng ta đối với chúng và đối với bất cứ khái niệm nào về thường còn.  Khi chúng ta thiếu sự thấu hiểu về bản chất khổ não của sự tồn tại sinh tử, sự dính mắc của chúng ta với đời sống gia tăng.  Nếu chúng ta trau dồi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất khốn khó của đời sống, chúng ta sẽ vượt thắng sự dính mắc.

 

Một cách căn bản, tất cả những khó khăn sinh khởi từ vọng tưởng cơ bản của chúng taChúng ta tin tưởng trong sự tồn tại cố hữu (có tự tánh) của chính chúng ta và tất cả những hiện tượng khác.  Chúng ta vọng tưởng rồi bắm chặc vào, ý tưởng về bản chất bên trong của mọi vật, một bản chất mà mọi hiện tượng không thật sự sở hữuChúng ta hãy lấy một cái ghế đơn giản để làm thí dụChúng ta tin tưởng mà không nhận ra một cách trọn vẹn niềm tin này, rằng có một thứ như vậy như bản chất của chiếc ghế, một phẩm chất của chiếc ghế dường như hiện hữu trong những bộ phận của nó:  những cái chân, chỗ ngồi, và chỗ dựa.  Trong cùng cách như vậy, mỗi chúng ta tin rằng có một cái "tôi" bản chấttương tục bao hàm những bộ phận thân thểtinh thần  làm nên mỗi chúng ta.  Phẩm chất cơ bản này chỉ đơn thuần do chúng ta quy cho; nó không thật sự tồn tại.

 

Sự chấp trước của chúng ta vào sự tồn tại cố hữu (tự tánh) là một nhận thức sai lầm nền tảng mà chúng ta phải tiêu trừ qua sự hành thiền về con đường tuệ trí.  Tại sao?  Bởi vì nó là nguyên nhân gốc rể của tất cả những khốn khó của chúng ta.  Nó nằm trong cốt lõi của tất cả mọi cảm xúc phiền não.

 

Chúng ta có thể từ bỏ vọng tưởng của phẩm chất căn bản này chỉ bằng việc trau dồi sự đối trị trực tiếp của nó, đấy là tuệ trí nhận ra sự không tồn tại của phẩm chất này.  Xét cho cùng, chúng ta trau dồi tuệ trí thâm sâu này, như chúng ta trau dồi sự khiêm hạ nhằm để nhổ gốc kiêu căng của chúng ta.  Trước nhất chúng ta phải trở nên quen thuộc với một cung cách thích đángchúng ta nhận thức về chính mình và những hiện tượng khác; rồi thì chúng ta mới có thể trau dồi một nhận thức đúng đắn về các hiện tượng.  Khởi đầu, nhận thức này sẽ là thông tuệ, như trong những loại thấu hiểu mà chúng ta đạt được qua học hỏi và lắng nghe giáo huấn

Để làm sâu sắc hơn nhận thức này đòi hỏi những thực tập thiền quán cụ thể hơn được diễn tả trong Chương 11, "Nhất Tâm Bất Loạn", Chương 12, "Chín

Giai Tầng của Thiền Nhất Tâm Bất Loạn", và Chương 13 "Tuệ Trí".  Chỉ như thế thì nhận thức mới có thể tác động chân thật quan điểm của chúng ta về chính mình và những sự vật khác.  Bằng việc thực chứng một cách trực tiếp sự thiếu vắng bản chất cố hữu (vô tự tánh), chúng ta mới có thể nhổ gốc chính căn bản của sự chấp trước nằm cốt lõi tất cả mọi khổ đau của chúng ta.

 

Phát triển tuệ trí là một tiến trình đưa tâm thức chúng ta phù hợp với cung cách mọi vật thật sự là.  Qua tiến trình này chúng ta dần dần loại trừ những nhận thức sai lầm về thực tạichúng ta đã từng có từ thời vô thỉ.  Việc này không dễ dàng.  Chỉ đơn thuần thấu hiểu ý nghĩa sự tồn tại cố hữu hay thực chất bên trong hay tự tánh của sự vật là gì đòi hỏi phải học tập và quán chiếu rất nhiều.  Việc nhận thức rằng mọi vật không có sự tồn tại cố hữu hay vô tự tánh là một tuệ giác thâm sâu, nó đòi hỏi hàng năm học hỏi và hành thiền.  Chúng ta phải bắt đầu bằng việc làm quen chính chúng ta với những khái niệm này, những điều chúng ta sẽ khám phá xa hơn sau này trong quyển sách này.  Tuy nhiên, ngay lúc này, chúng ta hãy trở lại khía cạnh phương pháp nhằm để khám phá ý niệm bi mẫn.

 

Tuesday, October 16, 2012  / 15:57:16

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2531)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2222)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2658)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2525)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2352)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2667)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2437)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3248)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2321)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2411)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2544)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2467)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2539)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2203)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2579)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3048)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2650)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2708)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 2994)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2557)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2592)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4098)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2774)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3066)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3306)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2290)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2501)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2803)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 3000)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2870)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2608)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2634)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3189)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2595)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2271)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2386)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2476)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2596)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2688)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2745)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3266)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2556)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2131)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2599)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2052)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2817)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2905)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2939)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2714)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 2509)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant