Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 2: Thiền Tập – Sự Khởi Đầu

21 Tháng Giêng 201917:32(Xem: 3638)
Chương 2: Thiền Tập – Sự Khởi Đầu
TRÁI TIM RỘNG MỞ
THỰC TẬP BI MẪN TRONG ĐỜI SỐNG HÀNG NGÀY
Nguyên bản: An Open Heart: Practicing Compassion in Everyday Life

Tác giả
: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Thông dịch: Thupten Jinpa
Biên tập và nhuận sắc: Nicolas Vreeland
Chuyển ngữTuệ Uyển

trai tim rong mo

CHƯƠNG 2: THIỀN TẬP -  SỰ KHỞI ĐẦU

 

Thursday, September 27, 2012

 

TRONG CHƯƠNG NÀY, chúng ta khám phá những kỷ năng cho việc thay đổi tâm thức từ những thói quen để những cung cách đạo đức hơn.  Có hai phương pháp của thiền tập được sử dụng trong sự thực tập của chúng ta.  Một là, thiền phân tích[1], là phương tiện mà qua đấy chúng ta tự làm quen với những ý tưởngthái độ tinh thần mới.  Thứ kia là thiền ổn định[2], tập trung tâm thức trên một đối tượng chọn lựa.

 

Mặc dù tất cả chúng ta tự nhiên thiết tha mong mõi được hạnh phúcao ước vượt thắng khổ não, nhưng chúng ta tiếp tục trải nghiệm đau đớn và khổ sở.  Tại sao là như thế?  Phật Giáo dạy rằng chúng ta thật sự được kết hợp lại trong những nguyên nhânđiều kiện và chúng đã tạo nên những sự bất hạnh của chúng ta, và thường không sẳn lòng dấn thân trong những hành vi có thể đưa đến niềm hạnh phúc bền lâu.  Việc này là như thế nào?  Trong cung cách thông thường của đời sống, chúng ta tự để bị khống chế bởi những tư tưởngcảm xúc mạnh mẽ, những thứ rồi thi cho phát sinh các tình trạng tiêu cực của tâm thức.  Chính là do vòng lẩn quẩn  này mà chúng ta  làm tồn tại mãi mãi không chỉ sự bất hạnh cho chúng ta mà cũng cho những người khác.  Chúng ta phải xây dựng một lập trường để cải đổi những khuynh hướng này và thay thế chúng với những thói quen mới.  Như một cành tươi non ghép trên một thân cây cằn cổi cuối cùng hòa nhập đời sống với cây ấy và tạo nên một cây mới, chúng ta phải nuôi dưỡng khuynh hướng ấy bằng việc trau dồi một cách cẩn trọng những sự thực tập đạo đức.  Đây là ý nghĩa và đối tượng chân thật của thiền tập.

 

Quán chiếu về bản chất khổ não của đời sống, xem xét những phương pháp nhờ đó nỗi khổ của chúng ta có thể được đưa đến chỗ chấm dứt, là một hình thức của thiền tập.  Quyển sách này là một hình thức của thiền tập.  Tiến trình mà qua đó chúng ta chuyển  hóa thái độ bản năng hơn của chúng ta đối với đời sống, thể trạng ấy của tâm thức chỉ hài lòng sự khao khát và lẫn tránh sự không thoải mái, là ý nghĩa của những gì khi chúng ta sử dụng từ ngữ thiền tậpChúng ta có khuynh hướng bị khống chế bởi tâm thức chúng ta, tuân theo nó cùng với lối mòn vị kỷ của nó.  Thiền tập là một tiến trình mà nhờ đó chúng ta đạt được kiểm soát đối tâm thức và hướng dẫn nó trong một phương hướng đạo đức hơn.  Thiền tập có thể được nghĩ như một kỷ năng mà nhờ đó chúng ta giảm bớt năng lực của thói quen tư tưởng cũ và phát triển những thói quen tốt đẹp mới.  Nhờ thế, chúng ta bảo vệ chính mình khỏi dấn thân trong những hành vi của tâm ý, lời nói, hay thân thể đưa đến khổ não cho chúng taThiền tập như vậy được sử dụng một cách rộng rãi trong sự thực tập tâm linh của chúng ta.

 

Kỷ năng này không ở trong và của chính Phật Giáo.  Giống  như người nhạc sĩ rèn luyện đôi tay của họ, những vận động viên với sự uyển chuyển và kỷ năng của họ, nhà ngôn ngữ học với đôi tai của họ, nhà bác học với nhận thức của họ, vì thế chúng ta hướng đến tâm thức và trái tim của chúng ta.

 

Làm quen chính mình với những khía cạnh khác nhau của việc thực hành tâm linh do thế là một hình thức của thiền tập.  Chỉ đơn giản đọc qua một lần không có lợi lạc gì nhiều.  Nếu các bạn thích thú, thật hữu ích để quán chiếu những đề tài được đề cập, như chúng tôi đã đề cập ở chương trước với hành vi không đức hạnh về nói với vô nghĩa, và rồi nghiên cứu chúng một cách bao quát hơn để mở rộng sự thấu hiểu của chúng ta.  Càng khám phá chủ đềchinh phục nó đến sự nghiên cứu kỷ lưỡng tinh thần, chúng ta càng thấu hiểu nó một cách sâu sắc hơn.    Điều này có thể cho phép chúng ta phán xét nó một cách có cơ sở vững chắc.  Nếu qua sự phân tích chúng ta minh chứng điều gì đó là vô giá trị, thế thì chúng ta đặt nó qua một bên.  Tuy nhiên, nếu chúng ta kiến lập điều gì đó một cách độc lậpđúng đắn, thế thì niềm tin của chúng ta trong chân lý ấy là một sự kiên cố đầy năng lựcToàn bộ tiến trình nghiên cứu và sự quan sát kỷ lưỡng này phải được nghĩ như là một hình thức của việc hành thiền.

 

Chính Đức Phật đã nói rằng, "Này các môn đệ và những người thông tuệ, đừng chấp nhận lời nói của ta chỉ đơn giản vì sự tôn kính.  Các con phải đưa chúng ra phân tích phê bìnhchấp nhận chúng trên căn bản sự thấu hiểu của các con."  Tuyên bố nổi tiếng này có nhiều ngụ ý.  Rõ ràng Đức Phật đang nói với chúng ta rằng khi chúng ta đọc một bản văn chúng ta không nên chỉ dựa vào danh tiếng của tác giả nhưng đúng hơn là căn cứ vào nội dung của tác phẩm.  Và khi nắm bắt nội dung, chúng ta nên dựa trên vấn đề chủ đềý nghĩa hơn thể loại văn chương.  Khi liên hệ đến chủ đề, chúng ta nên dựa trên sự thấu hiểu kinh nghiệm hơn là trên sự nắm bắt thông minh.  Nói cách khác, chúng ta phải phát triển một cách căn bản hơn là chỉ đơn thuần trên kiến thức trừu tượng không thực tế của Giáo PhápChúng ta phải hợp nhất chân lý giáo huấn của Đức Phật vào trong chiều sâu của chính con người chúng ta, vì thế chúng trở thành được phản chiếu trong đời sống chúng ta.  Bi mẫn chỉ có giá trị nhỏ bé nếu nó tiếp tục vẫn là một ý tưởng.  Nó phải trở thành thái độ của chúng ta đối với người khác, phản chiếu trong tất cả mọi tư tưởnghành vi.  Và khái niệm khiêm tốn đơn thuần không giảm thiểu tính kiêu căng của chúng ta; nó phải trở thành thể trạng thật sự của con người cũng như sự biểu hiện.

 

 

QUEN THUỘC VỚI CHỦ ĐỀ CHỌN LỰA

 

Tạng ngữ cho thiền tập là gom, có nghĩa là "làm quen thuộc".  Khi chúng ta sử dụng thiền trên con đường tâm linh, đấy là để làm quen thuộc chính mình với một đối tượng chọn lựa.  Chủ đề này không nhất là một vật thể vật lý chẳng hạn một hình tượng của Đức Phật hay Giê-su trên thánh giá.  "Đối tượng chọn lựa" có thể là một phẩm chất chẳng hạn như kiên nhẫn, là điều chúng ta thực hiện việc trau dồi bên trong chính chúng ta bởi phương tiện thiền quán chiếu.  Nó cũng có thể là chuyển động nhịp nhàng của hơi thở, là điều chúng ta thực hiện để làm tĩnh lặng tâm tư bất ổn của chúng ta.  Và nó cũng có thể chỉ là một phẩm chất của trong sánghiểu biết - tâm thức của chúng ta - bản chất của việc chúng ta tìm kiếm để thấu hiểu.  Tất cả những kỷ năng này được diễn tả trong chiều sâu của trang sách kế tiếp.  Bằng những phương tiện này kiến thức chúng ta về đối tượng lựa chọn được lớn mạnh.

 

Thí dụ, khi chúng ta tìm kiếm một loại xe hơi để mua, đọc ưu và khuyết của những hảng xe khác nhau, chúng ta phát triển một cảm nhận về những phẩm chất của một sự chọn lựa đặc thù.  Bằng việc quán chiếu những phẩm chất này, sự đánh giá của chúng ta về chiếc xe này sâu sắc hơn, với mong muốn sở hữu nó.  Chúng ta có thể trau dồi những đức hạnh chẳng hạn như kiên nhẫnbao dung trong cùng cách rất giống như thế.  Chúng ta cũng làm thế bằng việc quán chiếu những phẩm chất đã cấu thành sự kiên nhẫn, sự hòa bình của tâm thức phát sinh trong chúng ta, môi trường hòa hiệp được tạo nên như một kết quả của nó, sự tôn trọng nó đem lại trong những người khác.  Chúng ta cũng hành động để nhận ra những hạn chế của sự thiếu kiên nhẫn, sự giận dữ và thiếu bao dung chúng ta khổ sở trong ấy, sự sợ hãithù địchmang đến những người chung quanh chúng ta. Bằng việc thực hành một cách cần mẫn theo những dòng tư tưởng này, sự kiên nhẫn của chúng ta tiến bộ một cách tự động, tăng trưởng mạnh hơn và mạnh hơn, ngày qua ngày, tháng qua tháng, và năm này qua năm khác.  Tiến trình thuần hóa tâm thức là một tiến trình lâu dàiTuy nhiên, một khi chúng ta đã làm chủ sự kiên nhẫn, niềm hoan hỉ xuất phát từ đấy tồn tại lâu hơn bất cứ niềm vui nào có được từ chiếc xe hơi ta mua được.

 

Chúng ta thật sự dấn thân trong việc hành thiền như thế rất thường xảy ra trong đời sống hằng ngày của chúng taChúng ta đặc biệt làm lớn mạnh rất tốt một cách quen thuộc đối với những khuynh hướng bất thiện!  Khi không hài lòng với người nào đó, chúng ta có thể quán chiếu đến lỗi lầm của người đó và phát sinh một niềm tin chắc chắn về bản chất đáng nghi ngờ của người đó.  Tâm thức chúng ta tiếp tục duy trì sự tập trung trên 'đối tượng' trong việc hành thiền của chúng ta, và sự quán chiếu của chúng ta cho người đó do thế gia tăng mãnh liệt.  Chúng ta cũng quán chiếu và phát triển sự quen thuộc với những đối tượng chọn lựa  khi chúng ta tập trung trên sự việc nào đó hay người nào đó mà chúng ta yêu thích. Rất ít sự khích động cần đến để duy trì sự tập trung của chúng ta.  Thật khó khăn hơn để duy trì tập trung khi chúng ta trau dồi đạo đức.  Đây là một biểu hiện chắc chắn của vấn đề những cảm xúc của luyến áitham dục tràn ngập như thế nào!

 

Có nhiều loại thiền tập.  Có một số loại không đòi hỏi nghi thức hay một tư thế đặc thù nào.  Chúng ta có thể hành thiền trong khi lái xe hay đi bộ, trên xe buýt hay xe lửa, và ngay cả trong khi tắm rửa.  Nếu chúng ta nguyện ước dành một thời gian đặc thù nào đó cho việc thực thành tập trung tâm linh, thật lợi ích để áp dụng vào buổi sáng sớm cho một buổi hành thiền nghi thức, thời giantâm thức tỉnh táotrong sáng nhất.  Thật lợi ích để ngồi trong một môi trường tĩnh lặng với lưng thẳng, vì nó giúp chúng ta duy trì sự tập trung.  Tuy nhiên, thật quan trọng để nhớ rằng chúng chúng ta phải trau dồi những thói quen đạo đức tinh thần bất cứ khi nào và bất cứ nơi nào có thể.  Không thể giới hạn việc hành thiền trong những buổi thiền nghi thức.

 

 

THIỀN PHÂN TÍCH

 

Như tôi đã nói, có hai loại thiền tập được sử dụng trong quán chiếutiếp thu những chủ đề tôi thảo luận trong quyển sách này.  Thứ nhất, có thiền phân tích.  Trong hình thức thiền này, việc làm quen với một đối tượng chọn lựa - thí dụ như chiếc xe ta mong muốn hay lòng từ bi hay kiên nhẫn chúng ta mong cầu phát sinh - được trau dồi qua tiến trình phân tích dựa trên lý trí.  Ở đây, chúng ta không chỉ tập trung trên một chủ đề.  Đúng hơn, chúng ta đang trau dồi một cảm nhận gần gũi hay thấu cảm với chủ đề chọn lựa bằng việc áp dụng một cách cần mẫn khả năng quả quyết của chúng ta.  Đây là hình thức của thiền quán tôi sẽ nhấn mạnh khi chúng ta khám phá những chủ đề khác nhau và cần được trau dồi trong sự thực tập tâm linh.  Một số chủ đề này là đặc biệt đối với một sự thực tập của Phật tử, một số thì không.  Tuy nhiên, một khi chúng ta đã phát triển sự quen thuộc với một chủ đề bằng phương tiện của sự phân tích như vậy, thật quan trọng để sau đó duy trì tập trung trên nó bằng phương tiện thiền ổn định nhằm để giúp nó thâm nhập một cách sâu sắc hơn.

 

 

THIỀN ỔN ĐỊNH

 

Loại thứ hai là thiền ổn định.  Việc này xảy ra khi chúng ta an trụ tâm thức trên một đối tượng chọn  lựa mà không tiến hành phân tích hay suy tư.  Khi hành thiền trên bi mẫn, thí dụ thế, chúng ta ta phát triển sự thấu cảm cho người khác và hoạt động trong việc nhận ra nổi khổ não mà họ trải nghiệm.  Điều này chúng ta thực hiện bằng phương tiện của thiền phân tích.  Tuy nhiên, một khi chúng ta có một cảm nhận bi mẫn trong trái tim của chúng ta, một khi chúng ta thấy rằng thiền tập đã thay đổi một cách tích cực thái độ của chúng ta đối với người khác, chúng ta an trụ trên cảm nhận ấy, mà không đi vào suy tư.  Điều này giúp làm sâu sắc hơn sự bi mẫn của chúng ta.  Khi chúng ta cảm thấy rằng cảm nhận bi mẫn của chúng ta bị yếu đi, chúng ta có thể tiến hành lại trong thiền phân tích để đem lại sức sống cho sự thông cảmquan tâm trước khi trở lại thiền ổn định. 

 

Khi chúng ta trở nên thuần thục hơn, chúng ta có thể khéo léo hoán chuyển giữa hai loại thiền tập nhằm để tẳng cường phẩm chất mong muốn.  Trong Chương 11, "Nhất Tâm Bất Loạn", chúng tôi sẽ thẩm tra kỷ năng của việc phát triển thiền ổn định đến điểm mà chúng ta có thể duy trì tập trung nhất niệm trên chủ đề thiền tập bao lâu tùy chúng ta muốn.  Như tôi đã nói, "chủ đề thiền tập" này không nhất thiết là điều gì đấy chúng ta có thể "thấy".  Trong một ý nghĩa, chúng ta hợp nhất tâm thức với chủ đề nhằm để trau dồi một sự quen thuộc với nó.  Thiền ổn định, giống như những hình thức khác của thiền tập, không phải vốn là đạo đức trong bản chất.  Đúng hơn, nó là đối tượng chúng ta tập trung và động cơ thúc đẩy điều mà chúng ta tiến hành trong sự thực tập quyết định phẩm chất tâm linh trong sự thiền tập của chúng ta.  Nếu tâm thức chúng ta tập trung vào lòng bi mẫn, việc hành thiền là đạo đức.  Nếu nó được đặt vào sự giận dữ, thì nó không phải đạo đức.

 

Chúng ta phải hành thiền trong luồng thái độ, việc trau dồi sự quen thuộc với một đối tượng được chọn lựa dần dần.  Việc học hỏi và lắng nghe với một vị thầy phẩm hạnh là một bộ phận quan của tiến trình này.  Sau đó chúng ta quán chiếu những gì chúng ta đã  đọc hay nghe, nghiên cứu cẩn thận nó để loại trừ bất cứ sự rối rắm, nhận thức sai lầm, hay nghi ngờ nào chúng ta có thể có.  Tiến trình này tự nó giúp tác động tâm thức.  Rồi thì, khi chúng ta tập trung trên đối tượng của chúng ta một cách nhất  niệm, tâm thức chúng ta trở nên hợp nhất với nó trong một thái độ mong muốn.

 

Thật quan trọng là trước khi chúng ta hành thiền trên những khía cạnh vi tế hơn của triết lý Phật Giáo, chúng ta có thể giữ tâm thức chúng ta tập trung trên những chủ đề đơn giản hơn.  Việc này giúp chúng ta phát triên khả năng phân tích và duy trì tập trung nhất niệm trên những chủ đề vi tế chẳng hạn như sự đối trị đối với tất cả những sự khổ não của chúng ta, đấy là tánh không của sự tồn tại cố  hữu (vô tự tánh).

 

Hành trình tâm linh của chúng ta là một hành trình dài.  Chúng ta phải lựa chọn con đường chúng ta một cách cẩn trọng, bảo đảm rằng nó bao hàm tất cả những phương pháp đưa chúng ta đến mục tiêu mong ước.  Có những lúc hành trình là gian khó.  Chúng ta phải biết điều chỉnh tốc độ chậm như sên trong việc quán chiếu sâu sắc trong khi cũng bảo đảm rằng chúng ta không quên những vấn nạn của hàng xóm chúng ta hay những con cá bơi lội trong những đại dương ô nhiễm hàng nghìn dặm xa nơi nào ấy.

 

Saturday, October 13, 2012 / 20:01:41


 



[1] Thiền phân tích: quán, thiền quán, tuệ minh sát, liễu biệt thiền.

[2] Thiền ổn định: chỉ, thiền định, thiền tập trung, tam muội thiền.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2310)
Cái chết của những người thân yêunghiệp chướng của tôi hay của họ? Cuộc sống của chúng ta luôn tương tác và phụ thuộc lẫn nhau, và...
(Xem: 2773)
Một người đàn ông ngã bệnh và tìm đến bác sĩ. Vị bác sĩ khám cho bệnh nhân này và sau đó viết cho anh ta một toa thuốc trên một mảnh giấy.
(Xem: 2548)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2245)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2669)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2546)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2378)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2681)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2457)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3276)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2334)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2426)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2560)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2480)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2558)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2235)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2595)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3066)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2664)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2731)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 3018)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2579)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2621)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4122)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2789)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3088)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3326)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2301)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2532)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2814)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 3018)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2887)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2631)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2642)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3202)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2604)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2281)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2402)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2494)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2610)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2703)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2766)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3284)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2572)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2137)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2612)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2061)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2837)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2933)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2964)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant