Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 14: Quả Phật

21 Tháng Giêng 201917:56(Xem: 3698)
Chương 14: Quả Phật
TRÁI TIM RỘNG MỞ
THỰC TẬP BI MẪN TRONG ĐỜI SỐNG HÀNG NGÀY
Nguyên bản: An Open Heart: Practicing Compassion in Everyday Life

Tác giả
: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Thông dịch: Thupten Jinpa
Biên tập và nhuận sắc: Nicolas Vreeland
Chuyển ngữTuệ Uyển

trai tim rong mo

CHƯƠNG 14:  QUẢ PHẬT

 

ĐỂ  QUY Y một cách chân thành trong Ba Ngôi Tôn Quý, với lòng khao khát thâm sâu đạt đến giác ngộ vô thượng nhằm để làm lợi ích cho tất cả chúng sanh, chúng ta cần thấu hiểu bản chất của giác ngộChúng ta, dĩ nhiên, phải nhận ra rằng bản chất của cuộc sống trần gian là đầy khổ nãoChúng ta biết rằng sự phù  phiếm của việc theo đuổi trong vòng sanh tử có thể dường như vô cùng cám dỗChúng ta quan tâm vì sự khổ đau mà người khác đang liên tục trải nghiệm, và chúng ta khao khát giúp họ vượt khỏi khổ não của họ.  Khi sự thực hành của chúng ta được thúc đẩy bằng nguyện vọng này, việc hướng chúng ta đạt đến giác ngộ cứu kính của Quả Phật, chúng ta ở trên con đường của Đại Thừa.

 

Thuật ngữ Đại Thừa thường được phối hợp với những hình thức Phật Giáo được truyền bá vào Tây Tạng, Trung Hoa, và Nhật BảnThuật ngữ này đôi khi cũng được áp dụng đến những trướng phái Phật Giáo khác nhau.  Tuy nhiên, ở đây tôi đang sử dụng thuật ngữ Đại Thừa trong ý nghĩa của một nguyện vọng nội tại của sự thực tập cá nhân.  Động cơ tối thượng chúng ta có thể có là cung ứng tất cả chúng sanh với hạnh phúc, và nổ lực mà chúng ta có thể dấn thân là đang hổ trợ tất cả chúng sanh đạt đến hạnh phúc ấy.

 

Những hành giả Đại Thừa dâng hiến chính mình đạt đến thể trạng của một Đức Phật.  Họ hành động trong việc loại trừ si mê, phiền não, lòng vị kỷ được thúc đẩy bởi những hình thức tư tưởng cản trở họ đạt đến thể trạng giác ngộ hoàn toàn, thông suốt mọi sự cho phép họ làm lợi ích thật sự cho người khác.  Hành giả dâng hiến chính họ để tinh luyện những phẩm chất đức hạnh chẳng hạn như rộng lượng, đạo đức, và nhẫn nhục đến mức độ họ sẽ tự dâng hiến trong bất cứ phương cách cần thiết nào và sẽ chấp nhận tất cả mọi khó khăn và bất công nhằm để phục vụ người khác.  Quan trọng nhất, họ phát triển tuệ trí của họ: sự thực chứng tánh không.  Họ hành động với việc làm cho sự thực chứng  này về tánh không của sự tồn tại cố hữu (vô tự tánh) ngày càng thậm thâm hơn.  Họ phải tinh luyện tuệ giác này và phải làm sâu sắc thêm sự vi tế của tâm thức họ nhằm để được như thế.  Dĩ nhiên, thật khó khăn để diễn tả tiến trình tiến đến việc đạt được cứu kính của Quả Phật.  Cũng đủ để nói rằng khi sự thực chứng của chúng ta về tánh không của sự tồn tại cố  hữu trở nên thậm chí sâu hơn, tất cả những dấu vết của vị ngã được tiêu trừhành giả tiếp cận thể trạng giác ngộ trọn vẹn của Quả Phật.  Tuy nhiên, cho đến khi chính chúng ta bắt đầu tiếp cận thật sự những sự thực chứng như vậy, sự thấu hiểu của chúng ta vẫn là lý thuyết.

 

Khi những dấu vết cuối cùng của những nhận thức si mê sai lầm và những thiên hướng của chúng đã được loại trừ khỏi tâm thức hành giả, tâm tinh khiết ấy là tâm của một Đức PhậtHành giả đã đạt đến giác ngộGiác ngộ, tuy nhiên, có một số phẩm chất khác, liên hệ trong kinh luận Phật Giáo như những thân.  Một số thân này có thân thể vật chất, những thân khác thì không.  Những thân không có hình thể vật chất kể cả thân chân thật - thanh tịnh pháp thân.  Đây là những gì mà tâm tinh khiết được biết đến.  Phẩm chất toàn tri của tâm giác ngộ, năng lực của nó nhận thức một cách liên tục tất cả mọi hiện tượng cũng như bản chất hiện hữu trống rỗng của sự tồn tại cố hữu được biết như thân tuệ trí của Đức Phật - tuệ trí thân.  Và bản chất trống rỗng của tâm toàn tri này được liên hệ như thân tự nhiên của Đức Phật - tự tánh thân.  Không thân nào trong đây (được xem như là những khía cạnh của thân chân thật) có hình thể vật chất.  Tất những thân đặc thù này được đạt đến qua phương diện "tuệ trí" của con đường tu tập.

 

Rồi thì có những biểu  hiện vật lý của giác ngộ.  Ở đây chúng ta đi vào một thế giới vô cùng khó khăn nắm bắt đối với hầu hết chúng ta.  Các biểu hiện được gọi là những hình thể của thân Đức PhậtThọ dụng thân của Đức Phật là một biểu hiện có thân thể vật lý nhưng không thể thấy gần như đối với tất cả chúng taThọ dụng thân có thể được nhận thức chỉ bởi những bậc thực chứng vô cùng cao độ, các vị Bồ tát những người trải nghiệm thậm thâm chân lý cứu kính được thúc đẩy bởi khát vọng mãnh liệt đạt đến Quả Phật vì lợi ích của tất cả chúng sanh.

 

Từ thọ dụng thân này vô biên ứng thân đồng thời lưu xuất.  Không như thọ dụng thân, những biểu hiện này của sự đạt đến giác ngộ trọn vẹn Phật Quả là có thể thấy được và đến gần được bởi những con người thông thường, đấy là những con người như chúng taDo bởi phương tiện của những ứng thân mà các Đức Phật mới có thể hổ trợ chúng ta.  Nói cách khác, những biểu hiện này là hóa thân của những bậc giác ngộ.  Những thân này đảm đương một cách hoàn toànthuần khiết vì lợi ích của chúng ta.  Những thân này hình thành sự hiện hữu vào lúc hành giả đạt được giác ngộ hoàn toàn, như một kết quả của nguyện vọng từ bi của vị ấy để giúp đở người khác.  Chính là bằng phương tiện của những ứng thân vật chất này mà một Đức Phật dạy dỗ người khác phương pháp mà chính ngài nhờ đó đạt đến thể trạng giải thoát khổ não.

 

Đức Phật giúp đở chúng ta qua những ứng thân như thế nào?  Phương tiện trung gian chính mà qua đấy một Đức Phật hiển hiện hành vi giác ngộgiáo huấn này.  Đức Phật Thích Ca bậc đã đạt đến giác ngộ dưới cội cây bồ đề 2.500 năm trước đây, là một ứng thân.

 

Một sự giải thích về những khía cạnh khác nhau về thể trạng giác ngộ của Quả Phật như vậy có thể nghe hơi giống như khoa học giả tưởng, một cách đặc biệt nếu chúng ta khám phá vô biên ứng thân của vô lượng chư Phật biểu hiện trong vô số thế giới nhằm để hổ trợ vô số chúng sanhTuy nhiên, ngoại trừ sự thấu hiểu của chúng ta về Quả Phật đủ phức tạp để nắm bắt những phương diện luận lý hơn của giác ngộ, nếu không thì sự quy y Phật Bảo của chúng ta sẽ không đủ năng lực cần thiết.  Sự thực hành Đại Thừa, mà trong ấy chúng ta tự phát nguyện cung ứng hạnh phúc cho tất cả chúng sanh, là một hứa nguyện rộng lớn.  Nếu sự thấu hiểu của chúng ta về Phật Bảogiới hạn với một nhân vật lịch sử Thích Ca Mâu Ni, chúng ta sẽ là đang tìm kiếm sự nương tựa trong một người nào đó đã chết rất lâu rồi và không còn có năng lực để hổ trợ chúng ta.  Nhằm để cho sự quy y của chúng tanăng lực thật sự, chúng ta phải nhận thức những khía cạnh  khác nhau của thể trạng Quả Phật.

 

Chúng ta giải thích về sự tương tục bất diệt trong sự tồn tại của một Đức Phật như thế nào?  Chúng ta hãy nhìn vào tâm thức chúng ta.  Nó giống như một dòng sông - một sự tuôn chảy tương tục của sự  hiểu biết, mỗi sự tuôn chảy đưa đến một sự tuôn chảy khác của hiểu biết.  Dòng suối của những thời khắc của ý thức như vậy đi hết giờ này đến giờ khác, năm này đến năm khác, và ngay cả, phù hợp với quan điểm của Đạo Phật, từ kiếp sống này đến  kiếp sống khác.  Mặc dù thân thể chúng ta không thể đồng hành với với chúng ta một khi năng lực của sự sống cạn kiệt, nhưng những thời khắc của tâm thức tiếp tục, qua cái chết và cuối cùng đi vào kiếp sống tới, bất cứ hình thức nào mà nó có thể có.  Mỗi chúng ta sở hữu một dòng suối tâm thức như thế.  Và nó không có bắt đầu và không có kết thúc.  Không có điều gì có thể chấm dứt nó.  Trong ý nghĩa này nó không giống như những cảm xúc như sân hận hay  luyến ái, là những thứ có thể được làm cho chấm dứt bằng việc áp dụng những phương pháp đối trịXa hơn nữa, bản chất thiết yếu của tâm thức được nói là tinh khiết; những nhiễm ô có thể được loại trừ, làm cho sự sự tương tục của tâm thức tinh khiết này bất diệt.  Một tâm như vậy, giải thoát khỏi mọi nhiễm ô, là thân chân thật của một Đức Phật, than tịnh Pháp thân.

 

Nếu chúng ta quán chiếu thể trạng giác ngộ trọn vẹn trong cách này, sự đánh giá của chúng ta về sự vĩ đại của Đức Phật lớn mạnh, cũng như niềm tin của chúng ta.  Khi chúng ta nhận thức những phẩm chất của một Đức Phật, nguyện vọng của chúng ta để đạt đến thể trạng này sâu sắc mãnh liệt hơn.  Chúng ta đi đến đánh  giá đúng giá trị và sự cần thiết của một bậc có thể ứng hóa những hình thể khác nhau nhằm để giúp đở vô lượng chúng sanh.  Điều này ban cho chúng ta sức mạnhquyết tâm để đạt đến tâm giác  ngộ.


 



[1] Bảy điều quán nguyện tương tự như Mười nguyện Phổ Hiền nhưng tóm thâu lại.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2628)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2513)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2319)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2632)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2415)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3221)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2298)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2392)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2513)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2451)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2521)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2173)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2562)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3031)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2629)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2680)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 2948)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2523)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2557)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4052)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2757)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3030)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3283)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2274)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2489)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2783)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 2978)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2852)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2597)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2610)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3175)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2585)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2261)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2369)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2466)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2581)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2667)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2720)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3248)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2543)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2119)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2571)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2034)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2801)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2880)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2910)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2688)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 2492)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2758)
Đời sống của con người thọ mạng nhiều lắm chỉ trên dưới trăm năm. Trong chuỗi thời gian này con người hưởng hạnh phúc không bao nhiêu,
(Xem: 2334)
Đạo đứccăn bản làm người. Một khi có đạo đức rồi, chúng ta mới có thể đứng vững được.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant