Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vô Biên Trong Hạt Cát

05 Tháng Ba 201907:32(Xem: 7714)
Vô Biên Trong Hạt Cát

VÔ BIÊN TRONG HẠT CÁT

 Phước Nguyên


Vô Biên Trong Hạt Cát

Ngày xưa, có chàng Thanh niên Thiện Tài vân du khắp nơi để tham học, theo sự chỉ dẫn của một vị Bồ-tát, anh đã lên đường đến Đa văn quốc (diễn đàn Tri thức) để cầu đạo với Tự Tại Chủ. Thấp thoáng, bên bãi cái dài vô tận, ảnh hiện hình bóng của một chú bé đang vọc cát và chơi đùa với đám trẻ con, đó không ai khác hơn, chính là nhân giả Tự Tại Chủ. Khi vừa nhìn thấy nhân giả, Thiện Tài liền cúi đầu sụp lạy, thưa rằng: “Xin ngài hãy dạy cho tôi con đường và hành động của một vị Bồ-tát”! Tự Tại Chủ vốn đã tinh thông toán pháp, nhờ sự truyền dạy của Đại sĩ Văn Thù, nên bèn nói với chàng Thanh niên này: “Con đường và hành động của một vị Bồ-tát chính là thấy được vô biên giữa hai hạt cát, hay chính trong hạt cát thấy được cái vô biên”. Bồ-tát không nhất thiết là vị phải có các phép lạ siêu nhiên, bay lượn giữa không trung, mà Bồ-tát là hiện thân từ những thực tại nhiệm mầu của sự sống. Câu trả lời về hành vi của Bồ-tát bởi vị nhân giả ấy, cho chúng ta một bài học vô cùng sống động. Trần gian này hạn hẹp hay rộng lớn, đều bắt đầu từ suy nghĩ của mỗi chúng ta. Một người, với tâm tư rộng lớn, họ nhìn thấy một thế giới bất tận không vượt ngoài hạt cát; ngược lại, một người với tâm tư nhỏ hẹp, chứa đầy thiên kiến, họ nhìn thấy ngôi nhà nhỏ của họ là một thế giới vô biên. Trần gian rộng hay hẹp còn tùy theo vào chiều kích tâm lý của mỗi con người.

Nói theo nhận thức kinh Phật, trần thế này không hẳn hoàn toàn là bể khổ, như người ta thường ví von: “biển khổ mênh mông sóng ngập trời”, nếu sự sống này chỉ được nhìn thấy qua lăng kính hoàn toàn khổ đau, thì đức Phật không bao giờ xuất hiện giữa trần gian này. Bởi vì, dẫu ngài có giảng dạy phương pháp nào đi chăng nữa, thì cuộc đời chung kết vẫn là khổ hải vô biên. Từ đó thấy rằng, chắc chắn, sự sống này còn có những điều an vui chân thật, mà chúng ta vô tình đánh mất hay lãng quên, thậm chí không nhận thức được, nên đức Phật xuất hiện để chỉ rõ con đường thoát khổ, nhận thức được đâu là cái an lạc thật sự. Với những ai tâm kiến hạn hẹp, thì thấy giữa hai hạt cát chỉ là một giới hạn tầm thường; nhưng với những người tâm tư rộng rãi, thì cái thấy đó trở thành một phương trời cao rộng. Một chút sóng gió, có thể làm lật úp con thuyền bé, nhưng không hề hớn gì với một chiếc thuyền lớn. Nhưng thuyền càng to, thì sóng cũng càng lớn, đó là quy luật vận động tất yếu của sự sống. Tính chất kéo theo, đưa con người ta đến vô cùng hay bế tắc, phụ thuộc vào tầm quan sát.



Với cái thấy vô biêncon người không bao giờ bị lừa dối bởi những danh lợi phù phiếm:
Mùi phú quý nhữ làng xa mã; 
Bã vinh hoa lừa gã công khanh. 
Giấc Nam kha khéo bất bình, 
Bừng con mắt dậy thấy mình tay không. 
(Cung oán ngâm khúc)

Vì cái thấy hữu hạn, nên con người bện chặt với lưới tơ đố kị, không thoát ra khỏi được những cái thường tình nhân thế. Bồ-tát, không phải là một khái niệm mơ hồ, mà là một hình ảnh cụ thể: một vị biết sống, sống bằng tất cả tấm lòng dâng hiến cho tha nhân, với lý tưởnghành vi thiết thực. Không cần thiết siêu nhân hóa, với cái lý tưởng: quên mình, vì người; một vị, tâm tư luôn luôn rộng lượng, biết bao dung, không bao giờ đề cao mình hạ nhục người, vị đó xứng đáng với danh hiệu Bồ-tát, dẫu ở cấp độ nào đi chăng nữa, vị đó luôn luôn thấy được những điều bất tận trong cái hữu tận.

Bằng nhận thức vô biên, con người không bao giờ làm ai đau khổ, không bao giờ khiến ai phải mất danh dự, vì rằng: “Nghìn vàng đâu dễ đền bồi tấm thân”. Hành vi của một vị Bồ-tát, không cao siêu huyền bí; hình ảnh một nhà sư già cần mẫn quét chùa, thỉnh chuông sớm tối, nhưng với một tâm hồn thanh thoát, tâm tư vị Sư ấy có thể trùm kín cả đại thiên Vũ trụ. Đức Phật từng đưa ra một ví dụ, tuy mộc mạc, nhưng lại thoát hóa: Vị tu tập giỏi giống như một khúc cây trôi giữa dòng sông, không bị vướng kẹt bởi những thị phi phải trái, thoát khỏi mọi sự giam cầm của các thái cực. Nhưng đôi khi, không phải lúc nào cũng như ý:

“Nợ tình chưa trả cho ai, 
Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan”. (Kiều)

Một chút nợ ân tình còn sót lại, có khi cũng đủ làm giới hạn tầm mắt của con người, giữa hai hạt cát chỉ vô biên khi con người biết đối đãi với nhau tử tế. Bằng thái độ hận thùganh ghétcon người chỉ có thể đạt đến cái hữu hạn nhỏ bé của sự sống. Đôi khi, chỉ cần một chút bao dung giữa dòng đời muôn trùng biến thiên, giữa sự đấu tranh mong manh của cái sống và cái chết, của tình yêu và hận thù, cũng đủ để người ta thấy được cái chí tình trong hạt cát vô biên.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 593)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 778)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1099)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1268)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 997)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1337)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 787)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 761)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 806)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 822)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 794)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 782)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 937)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 825)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 980)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 997)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 923)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 931)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 849)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1013)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 953)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 897)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 994)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 908)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 850)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 958)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 883)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1143)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 913)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1014)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1152)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1615)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1163)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1259)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1112)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 976)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 918)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 960)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 803)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1485)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1364)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1330)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1274)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1378)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1333)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1478)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1354)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1206)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1265)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1324)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant