Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đừng Ham Hành Đạo Sớm

31 Tháng Mười 201907:12(Xem: 4981)
Đừng Ham Hành Đạo Sớm
ĐỪNG HAM HÀNH ĐẠO SỚM

Thích Trung Hữu


Hạnh Phúc Trong Cuộc Sống Hiện Tại

Trong bài “Tổ Như Hiển - Chí Thiền”, đăng trên tuần báo GN 994, HT.Thích Trí Quảng có nhắc đến lời dạy của HT.Thích Trí Tịnh, rằng: “Pháp của Phật đánh đổi cả sinh mạng để cầu còn chưa chắc được, đâu phải cá ươn mà nài ép người ta mua”, làm cho tôi liên tưởng đến tình hình nhận đệ tử xuất gia của một bộ phận Tăng Ni ngày nay.

“Nhơn thân nan đắc, Phật pháp nan văn” (Thân người khó được, Phật pháp khó nghe). Phật pháp quý báu là vì nhờ biết được Phật pháp mà người ta thoát khỏi u mê, không rơi vào nẻo ác, hiện tại có cuộc sống an lạccuối cùnggiác ngộ giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, thành Phật. Chính vì thế mà người xưa coi Phật pháp quý hơn thân mạng mình. Tiền thân của Đức Phật vì muốn được nghe nửa bài kệchấp nhận bỏ thân mạng, vì muốn được nghe kinh Pháp hoa mà sẵn sàng trọn đời làm sàng tọa hầu hạ cho vị tiên nhơn nói kinh.

Thiền sư S.N.Goenka kể rằng, trước khi biết đến Phật giáo, ông bị chứng nhức đầu kinh niên, chạy chữa khắp các nước tiên tiến trên thế giới mà vẫn không hết. Ông nghe bạn giới thiệu rằng thiền có thể làm hết nhức đầu, bèn tìm đến trung tâm thiền nổi tiếng của Miến Điện do Thiền sư U Ba Khin hướng dẫn. Nhưng Thiền sư U Ba Khin từ chối cho Goenka tham gia khóa thiền vì rằng: “Giáo pháp của Phật cao thượng nhiệm mầu, há chỉ dùng để trị chứng nhức đầu của ông sao?”.

Người xưa đối với việc chọn người học Phật vô cùng nghiêm cẩn như vậy cho nên mới có thành tựu, mới đào tạo được pháp khí cho thiền gia. Ngay từ thời Đức Phật, Ngài đã đưa ra những chuẩn mực ai có thể xuất gia làm Tăng và ai không thể. Luật Ma-ha Tăng-kỳ đề cập 32 điều mà một người không được phép xuất gia, ví dụ như kẻ lừa đảo, phạm ngũ nghịch, nhỏ quá, già quá, bị mù điếc, bị câm què, mắc nợ, bị bệnh, dị dạng… Đức Phật từ chối cho phép xuất gia đối với những người không đủ điều kiện không phải vì Ngài không từ bi hay không bình đẳng mà vì Ngài không muốn Phật pháp bị hủy hoại bởi những người không đủ khả năng hay tư chất kham nhẫn hành trì giáo pháp. Nếu ai cũng có thể xuất gia thì người đời nhìn vào Tăng đoàn sẽ nói rằng Tăng đoàn Phật giáo đều là hạng người thất tình, thất nghiệp, thất chí hay trại dưỡng lão… Hơn nữa, do không thể hành trì Phật pháp nên họ sẽ có những hành vi sai với Chánh pháp, bị người đời chỉ tríchchán ghét. Và điều này làm cho Phật pháp bị hủy diệt nhanh chóng.

Chúng ta thấy ngày nay nhiều chùa nhận đệ tử xuất gia quá dễ dãi, không có chọn lựa, cân nhắc. Có vị còn cố gắng nhận đệ tử cho nhiều để được danh tiếng, được thập phương bá tánh cúng chùa cho nhiều, chứ không phải vì mục đích đào tạo Tăng/Ni tài, ươm mầm cho Phật pháp. Họ nhận vào cho đông rồi để đó chứ không dạy dỗ gì cả. Cho nên ở chùa lâu năm mà tâm tínhhành vi thì không mấy chuyển hóa: “Tích niên hành xứ, thốn bộ bất di”, cũng tham lam, sân si, gây gổ và ham vui không khác gì người thế gian. Những sự việc không hay xảy ra trong Phật giáo gần đây đều là do những người như thế làm ra. Tôi cho rằng nếu người thầy có trách nhiệm nuôi dạy đệ tử cho đàng hoàng thì những việc đáng tiếc như thế sẽ không thể xảy ra. Bởi vì những người chân chính xuất gia, có tu có học nghiêm túc thì họ sẽ biết thế nào là giới luậtoai nghi, thế nào là bổn phận và phép tắc của Sa-môn. Họ luôn luôn “nội cần khắc niệm chi công, ngoại hoằng bất tranh chi đức”. Họ thấy được sự cao quý và khác biệt giữa một Sa-môn và bạn hàng tôm hàng cá. Khi mà ai cũng có thể làm Tăng, bất kể xuất thân, thành phần xã hội, thì chất lượng đương nhiên phải khác rồi.

Chúng ta hãy nhìn cách tu họchành trì của người xưa: “Ngũ hạ dĩ tiền chuyên tinh giới luật, ngũ hạ dĩ hậu phương nãi thính giáo tham thiền”. Nghĩa là năm hạ về trước ròng chuyên giới luật, năm hạ về sau mới cho học giáo lýtham thiền. Không kể giai đoạn ngũ giới và Sa-di, sau khi thọ giới Tỳ-kheo, vị tân Tỳ-kheo đó phải trải qua năm năm chuyên học và nghiên cứu về giới luật. Sau khi làu thông giới luật rồi thì mới cho học giáo lý và các phương pháp tu tập như tham thiền chẳng hạn. Học giáo lýtham thiền mà còn phải chậm như vậy hà huống là học các phương tiện ứng phó đạo tràng. Còn ngày nay chúng ta nuôi dạy đệ tử như thế nào? Mới xuất gia bữa trước thì bữa sau cho thọ giới Sa-di. Rồi ít năm sau cho thọ giới Tỳ-kheo. Có trường hợp còn đặc cách cho thọ cả Sa-di và Tỳ-kheo trong cùng một giới đàn luôn, với lý do là để thuận tiện cho việc tu họclàm Phật sự. Tu họclàm Phật sự gì không thấy nhưng chỉ thấy ăn trên ngồi trước, đi đám cho nhiều và nhận bao thư cho dày. Thọ Tỳ-kheo rồi thì tự thấy mình là “thiên nhơn chi đạo sư”, cái cổ liền bị vôi hóa cứng đơ, gặp Phật tử đáng cha mẹ ông bà mình thì nghênh nghênh tự đắc, không biết cúi đầu chào hỏi. Ngược lại bắt họ phải thưa hỏi đảnh lễ mình. Người như vậy thì làm được gì cho Phật phápchúng sinh. Ngày qua tháng lại, “đến lúc tuổi đời đã cao, tuổi hạ cũng lớn mà bụng rỗng tâm cao… chỉ biết một bề kiêu ngạo”.

Tôi biết có một vị thầy nọ. Thầy bị bệnh nặng và sắp qua đời. Mặc dù đang nằm ở bệnh viện nhưng thầy ấy vẫn làm đơn xin Giáo hội tấn phong cho thầy lên Thượng tọa, “coi như tâm nguyện cuối cùng” của thầy. Có lẽ thầy nghĩ rằng như vậy sau này trên long vị của thầy sẽ ghi là Thượng tọa gì đó mới oai, chứ không phải chỉ là Đại đức. Tôi nghe vậy mà thấy ngậm ngùi. Đáng lẽ lúc này là lúc phải một lòng hướng Phật hay để tâm cho tỉnh thứcan nhiên vào cõi Niết-bàn, sao còn lại nghĩ đến chuyện tấn phong. Những chức danh như Thượng tọa, Hòa thượng do Giáo hội chế định ra như là cách để tôn kính bậc trưởng thượng chứ đâu phải dùng để phân định địa vịquyền uy cao thấp như hàm cấp ngoài đời. Chuyện này nói ra tuy thật đau lòng, nhưng tu hành như thế thì cũng thật đau khổ.

Tôi có người huynh đệ. Huynh ấy xuất gia 4 năm mới thọ Sa-di và 14 năm sau mới chịu thọ Tỳ-kheo. Thật ra huynh ấy cũng không muốn thọ giới Tỳ-kheo, nhưng vì có nhiều điều bất tiện nên đành phải thọ. Ví dụ như những sư đệ tu sau mà đã là Tỳ-kheo. Lên tụng kinh đứng trước thì không dám, còn đứng sau huynh ấy thì không đúng pháp. Rất khó xử như vậy nên huynh ấy mới chịu thọ Tỳ-kheo. Huynh ấy nói rằng chỉ cần 10 giới thôi tu cả đời cũng không hết, thọ thêm làm chi. Hơn nữa, thọ mà mình giữ không được thì chỉ tội thêm mà thôi. Dĩ nhiên quan niệm này cũng chưa hẳn đúng, nhưng quý ở chỗ biết tự lượng sức mình.

Vừa rồi có một học trò than thở với tôi rằng: “Ở chùa sao ai cũng ghét con”. Tôi nói đó là vì con nổi bật quá. Chùa càng to, sư phụ nổi tiếng, Phật tử nhiều, đạo tràng sung túc, thì càng dễ trở thành nơi cạnh tranh, ganh tỵ. Người học trò ấy nói rằng: “Chẳng lẽ mình không được nổi bật sao, chẳng lẽ chịu thiệt hoài sao?”. Tôi trả lời: “Phải”. Tu là phải chịu thiệt. Khi nào mình còn có cái tâm muốn nổi bật, nổi tiếng thì mình chưa tu gì cả, cái đức mình chưa cao. Ngày xưa chư Tổ vào chùa chỉ lo quét dọn nhà bếp nhà xí mà thành Tổ. Ngày nay mới vô chùa có mấy năm mà không chịu thua ai hết thì biết là đạo lực rất kém cỏi rồi. Mà người nào cũng muốn hơn người khác như vậy thì làm sao không xảy ra chuyện cho được.

Việc hành đạo coi khó mà dễ. Còn yên phận tu hành coi dễ mà khó. Hành đạo dễ là vì nó phù hợp với khuynh hướng hướng ngoại của con người. Hơn nữa, việc hành đạo cũng thỏa mãn con người ta những thứ như danh văn lợi lộc. Cho nên nhập thế, nếu không vững thì sẽ bị thế tục lôi kéo đi luôn. Còn yên phận tu hành khó là vì nó đòi hỏi người ta sự buông bỏ. Mà buông bỏ thì không phải là thói quen của nhiều người. Chỉ có bậc đại hùng đại lực mới có thể buông bỏ hoàn toàn.

Trong tự nhiên có rất nhiều loài cây khác nhau. Có loài cây vài tháng là có quả, có loài vài năm và cũng có loài mười năm trở lên mới cho quả. Cây nào càng cho quả sớm thì tuổi thọ của nó càng ngắn và ngược lại. Nhà tâm lý học Thụy Sĩ Carl Jung nói rằng: “Ngọn cây không thể vươn tới được thiên đàng nếu một phần rễ của nó không cắm ở địa ngục”. Sự sinh trưởng và phát triển của con người há không giống với sự sinh trưởng và phát triển của tự nhiên lắm sao! Cho nên thời gian tu dưỡng là điều rất quan trọng đối với người tu, trước khi… xuống núi. Phật pháp không phải cá ươn mà năn nỉ đem cho. Phật pháp chỉ dành cho người biết trân quý, nhất là người đó phải có khả năng hành trì. Nếu không thì số lượng càng nhiều thì càng làm hại cho Phật pháp mà thôi.

Thích Trung Hữu
(Bài đăng trên Giác Ngộ đặc biệt, số 1020)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2068)
Phật giáo, một con đường lý tưởng đi vào lòng dân tộc Việt từ ngàn xưa, trở thành một nếp sống tâm linh thuần thiện và tịnh khiết
(Xem: 1795)
Chúng ta đang sống trong cõi dục, sinh ra từ tham ái nên mọi người, mọi loài trên thế gian này đều chịu kiềm tỏachi phối của dục vọng.
(Xem: 2728)
Trong hàng đệ tử của Đức Phật, có một vị tăng hình dung xấu xí, lùn thấp, không chút nào hảo tướng, nên người mới gặp ...
(Xem: 2336)
Cái chết của những người thân yêunghiệp chướng của tôi hay của họ? Cuộc sống của chúng ta luôn tương tác và phụ thuộc lẫn nhau, và...
(Xem: 2789)
Một người đàn ông ngã bệnh và tìm đến bác sĩ. Vị bác sĩ khám cho bệnh nhân này và sau đó viết cho anh ta một toa thuốc trên một mảnh giấy.
(Xem: 2573)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2252)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2677)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2569)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2389)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2689)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2464)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3293)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2339)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2436)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2571)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2488)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2566)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2248)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2611)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3081)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2681)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2745)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 3044)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2589)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2636)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4150)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2797)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3107)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3338)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2310)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2542)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2836)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 3037)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2898)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2643)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2659)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3219)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2684)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2333)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2418)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2515)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2627)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2716)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2781)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3321)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2584)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2159)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2639)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2129)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant