Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Sen Vàng Nâng Gót Ngọc Đức Thế Tôn

04 Tháng Năm 202007:57(Xem: 5559)
Sen Vàng Nâng Gót Ngọc Đức Thế Tôn

Sen Vàng Nâng Gót Ngọc Đức Thế Tôn 

Thích Vân Phong

Sen Vàng Nâng Gót Ngọc Đức Thế Tôn

 

Đạo Phật có mặt tại Việt Nam, với chiều sâu và bề dày lịch sử hơn 20 thế kỷ, đã cùng với dân tộc phấn đấu giành quyền cho một nước Việt Nam tự chủ, độc lập; đã gây dựng nên một nếp sống "dân phong quốc tục" đẹp, làm vẻ vang cho nòi giống Việt. 

Hàng năm, cứ mỗi độ Hè về là mùa sen nở khoe sắc màu, hương tỏa khắp muôn phương như hương đức hạnh của bậc Đại Giác ngược gió khắp tung bay. Hình ảnh thanh lương đó gợi nhớ trong lòng người con Phật những trang huyền sử...

Hôm ấy, bên hồ sen, sau khi Phật xả thiền, Ngài nhìn xuống hồ, thấy hoa sen nở tươi đẹp vượt khỏi bùn nhơ lên mặt nước, quang hợp ánh sáng mặt trời và tỏa ngát hương tô điểm cho đời:

“Trong đầm đẹp gì bằng sen,
Lá xanh bông trắng lại chen nhụy vàng,
Nhụy vàng bông trắng lá xanh;
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.”

Cũng vậy, có  những chúng sinh bị vô minh phiền não che lấp tâm tính, có những chúng sinh vượt thoát khỏi vô minh phiền não, căn tính trở nên thanh tịnh, nếu gặp được Phật pháp thì sẽ viễn ly phiền não nghiệp chướng, hoa Giác ngộ sẽ trổ quả ngay đời này.

Hoa sen tươi đẹp, hương thơm thanh khiếtmọi người ưa thích khen ngợi, gốc từ bùn nhơ. Đây là một lẽ thật hết sức rõ ràng. Cuộc đời Thái tử Sĩ Đạt Ta rất gần với cuộc đời của mọi người chúng ta. Ngài là một con người bằng xương bằng thịt ở trong cõi đời này chứ không phải là bậc siêu nhân từ cõi nào đến. Ngài thị hiện trong chốn dục lạc, rồi từ dục lạc Ngài thức tỉnh đi tu.

Cách đây 2643 năm về trước Bồ tát Hộ Minh giáng trần, đem ánh sáng Từ bi Trí tuệ đến trần gian Ta bà này đã cất bước trên bảy đóa sen vàng:

“Bảy đóa  sen vàng nâng gót ngọc
Ba ngìn thế giới lễ Như Lai.”

Bảy đóa sen vàng nâng gót ngọc là một thông điệp vĩ đại về tiến trình thành tựu Vô thượng giác của đức Thế Tôn và tất cả chúng ta, những người con Phật.

Ngài thị hiện đản sinh, bước đi trên bảy đóa sen, ngước nhìn sáu phương, nơi bước cuối cùng thì Ngài dừng lại tuyên bố, xác quyết sự thành tựu Vô thượng giác. Vào đời với bảy bước chân từ bi, trí tuệ, an lạc, vô nhiễm, chẳng dính chút bụi trần là một định pháp mà ba đời mười phương chư Phật đã đi qua, Đức Thế Tôn cũng đã đi qua và những người con Phật sẽ phải đi qua để đạt đến Giác ngộ.

“Gởi em mỗi mùa sen nở  
Phật Đà thị hiện độ sinh   
Chỉ ra con đường hạnh phúc   
Truyền trao thông điệp hoà bình.”
(Tâm Chơn) 

Theo kinh Ưu Bà Di Pháp Môn Tịnh Hạnh-phẩm Thụy Ứng, Bồ Tát đản sinh, bước thứ nhất; nhìn về phương Đông, vì chúng sinh mà làm Bậc dẫn đường tối thượng. Phương Đông, nơi phát xuất bình minh Tuệ giác. Chúng sinh từ nơi tăm tối của dục vọng, vô minh, muốn cất bước chân đầu tiên vào đạo lộ Giải thoát phải nương theo Tuệ giác, tiếp nhận ánh sáng Tam bảo để hoàn thiện nhân cách (Thọ trì Tam Quy - Ngũ Giới). Muốn vậy, phải kiện toàn đạo đức, tri thức thông qua học hỏi, suy nghiệm và thực hành Chánh pháp. Trước khi trở thành thánh nhân, phải nỗ lực để sống trọn nhân cách một con người. Do vậy, tu tập Nhân thừa chính là bước chân đầu tiên. Bước chân nầy phải đặt trên hoa sen mới đúng nghĩa và trọn vẹn.

Cất bước thứ hai, Ngài nhìn về phương Nam thanh lương, vì chúng sinh làm ruộng phước mát mẻ. Thế Tôn đã vì chúng sinh nguyện làm ruộng phước mầu mỡ để cho mọi người gieo trồng phước đức. Trong các ruộng phúc thì Tam bảo là ruộng phúc tốt nhất cho hạt giống Từ bi, Trí tuệ, và Giải thoát đâm chồi nẩy lộc. Vì thế, khi đã vững trong địa vị Nhân thừa, người con Phật tiếp tục nương tựa Tam bảo để chuyển hóa nghiệp lực, tu tạo phúc điền, trang nghiêm phúc báo cho tự thân.

Phật là Đấng Phúc Trí nhị nghiêm, học theo Phật thì việc thực hành chuyển hóa nghiệp ác của thân, miệng, ý (Thân: sát sinh, trộm cướp, tà dâm. Miệng: Nói dối, nói lưỡi đôi chìu, nói lời hung ác. nói thêu dệt. Ý: Tham lam, giận dữ, si mê) thành nghiệp thiện nhằm vun bồi phúc đức là điều tối cần. Đây chính là giai đoạn tu tập của hàng Thiên thừa, dứt ác hành thiện, chuyển hóa mười nghiệp ác thành mười nghiệp lành. Bước chân thứ hai này là sự kế tục của bước chân thứ nhất, từ nền tảng quy y Tam bảo, thọ trì năm giới tiến lên tu mười nghiệp thiện. 
   
Đến đây, người con Phật đã đi được chặng đường "không làm các điều ác, chỉ làm các việc lành". Dù đã chuyển hóa nghiệp ác nhưng muốn đoạn trừ hoàn toàn cội rễ phiền não, vô minh thì người con Phật cần phải nỗ lực mạnh mẽ hơn. Vì thế, Ngài cất bước thứ ba; nhìn về hướng Tây chỉ cho chúng sinh thấy rằng đây là thân cuối cùng, chấm dứt sự sinh tử

Từ chuyển hóa nghiệp hướng đến chấm dứt nghiệp, thoát ly sinh tử là nội dung tu tập của bước chân thứ ba. Phương Tây là phương mặt trời lặn, hướng về sự vắng lặng, thanh tịnh, tịch diệt. Tâm phải nương vào thiền định, tập trung về một mối, định tĩnh, tịch tịnh hoàn toàn. Đây là bước chân của hàng Thanh văn thừa, những bậc Thánh hướng đến thoát ly sinh tử. Nỗ lực thiền định, phối hợp nhịp nhàng giữa Chỉ và Quán, hướng tâm đến bất động, phát huy Thiền quán duyên sinh để thân chứng vô ngã tính của thân tâmvạn pháp, thành tựu Tam vô lậu học, phá tan vô minh, chứng đắc A la hán.

Bước chân thứ tư là mở đầu cho hạnh nguyện độ tha. Ngài nhìn về phương Bắc lạnh lẽo, tối tăm, vì chúng sinh mà khai mở Tuệ giác tối thượng. Khi đã giải thoát sinh tử, vì chúng sinh khổ đau nên Bồ-tát không an trú Niết-bàn mà phát khởi Bi nguyện nhập thế. Bồ tát đi vào cuộc đời tăm tối vô minh, mịt mờ tham ái nhưng chẳng dính chút bụi trần, tự tại vững bước thong dong trên hoa sen bất nhiễm. Vận dụng vô lượng phương tiện thiện xảo để cứu độ chúng sinh, trong đó quan trọng nhất là chỉ rõ rằng, con người có khả năng Giác ngộ ngay trong cuộc đời này. 

Mỗi chúng ta ai cũng có Phật tính và đầy đủ khả năng thành Phật. Chúng sinhvô minh sâu dày nên không đủ căn lành tin vào tâm Giác ngộ vốn sẵn có nơi mình. Vì thế, thị hiện sự chứng đắc Tuệ giác Vô thượng trong đời sống ô trược là một minh chứng hùng hồn nhất cho khả tính Giác ngộ. Dẫu rằng đạt đến Giác ngộ không phải là điều có thể thành tựu trong một sớm một chiều mà có thể trải qua Ba a tăng kỳ kiếp mới đến ngày công viên quả mãn. Song việc đánh thức niềm tự tín Giải thoát để chúng sinh tự mình thắp đuốc lên mà đi, để thấy rằng Như Lai là Phật đã thành, chúng ta là Phật sẽ thành là Bi nguyện vĩ đại của Bậc Giác ngộ.

Tiếp tục dấn thân làm lợi ích cho hữu tình, nơi bước chân thứ năm, bước chân hoa sen trong biển lửa, nhìn xuống phương dưới vì chúng sinh hàng phục chướng ma. Phương dưới vốn thấp kém, quả báo của những chúng sinh chịu nhiều đau khổ, nên cang cường, hung dữ, ác độc cố chấp, ti tiện, hẹp hòi... Vì thế, ma chướng rất cần được soi sángthương yêu, tưới tẩm cam lộ. Nguyện hàng phục chúng ma nhưng thực ra chỉ cần đem Trí tuệTừ bi (tình thương) đến cho họ mà thôi.

Sự khổ đau rất đa dạng, trùng điệp. Khổ đau làm cho tâm hồn tăm tối và thân phận càng bi đát hơn. Vì thế, càng đau khổ đến tột cùng thì oán thù càng chồng chất và sự đày đọa thêm chập chùng, vô tận. Muốn hàng ma phải đi vào những nơi đau khổ, tối tăm, đầy hiểm nạn và nhờ đó Tuệ giác, bản lĩnh, công hạnh của Bồ tát mới thậm thâm. Bồ tát Quán Âm tầm thinh cứu khổ, nơi nào có tiếng kêu than bất hạnh thì Ngài tìm đến. Bồ tát Địa Tạng nguyện khi nào chúng sinh không còn bị đày đọa trong địa ngục thì Ngài mới chứng nhập Vô thượng Bồ đề.

Bước chân thứ sáu, nhìn lên phương trên vì chúng sinh làm chỗ nương tựa cho trời người. Khi đã dẹp yên ma oán, độ được những thành phần thấp kém khó độ thì hướng về những đối tượng cao hơn, có trí thức, hiểu biết và nhiều phước báo. Trời người là những chúng sinh có phước, ít đau khổ hơn so với Tam đồ, ác đạo (Địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh). Song, nếu không tích lũy và phát triển phước báo của mình bằng tu tập theo chánh pháp thì phước đức sẽ hết và sẽ bị đọa lạc như thường. Mặt khác, dẫu có phước báo nhưng vẫn bị vô minh chi phối, tham ái ràng buộc, phiền não hoành hành.     
Vì thế, trời người cần nương tựa Tam bảo, tiếp nhận ánh sáng Giác ngộ, phát huy Tuệ giác Vô thượng để “an trú tâm và hàng phục tâm”, hướng về giải thoát tối hậu. Trong sáu cõi thì trời, người có nhiều cơ hội thực hành Chánh pháp và thăng hoa tâm linh hơn các loài khác. Nương tựa Tam bảo, trời người tìm ra con đường nương tựa chính mình để tư mình thấp đuốc lên mà đi.

Khi đã tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn thì đó là thời điểm công viên quả mãn, thành Phật. Vì thế, bước chân thứ bảy là bước chân cuối cùng, công hạnh tự lợilợi tha đã tròn đầy, Ngài tuyên bố: “Ta là bậc đã tôn quý và tối thắng trong thế gian. Đối với chúng sinh trong ba cõi, bất kỳ ai tu tập đạt đến viên mãn tự lợilợi tha là Bậc tôn quý nhất, thù thắng nhất”. “Một người, này các Tỳ kheo, khi xuất hiện ở đời là xuất hiện một người, không hai, không có đồng bạn, không có so sánh, không có tương tợ, không có đối phần, không có người ngang hàng, không có đặt ngang bằng, Bậc tối thượng giữa các loài hai chân. Một người ấy là ai ? Chính là Như Lai, bậc A la hán, Chánh đẳng giác.” (Kinh Tăng Chi Bộ I, phẩm Một người).

Thế Tôn đã đi bảy bước trên đóa sen để thành Phật. Chúng ta, những người con Phật hiện đang đi và sẽ đi theo bảy bước chân ấy. Nguyện theo dấu chân xưa, thực hành tự độ và độ tha cho đến ngày công viên quả mãn.

 Mùa Phật đản về, hình ảnh “bảy đóa sen vàng nâng gót ngọc” có mặt khắp nơi, gợi lên cho mỗi người con Phật niềm tự tín giác ngộ của tự thân. Chúng ta cũng đang bước chân trên hoa sen bằng sự nỗ lực tu tập, ứng dụng lời Phật dạy vào trong đời sống hằng ngày để từng bước xây dựng niềm tự tin an lạc hạnh phúc, thành tựu giải thoát, cho chính mình và mọi người.

Sự kiện tuần lễ cúng dường Phật đản này nhằm kết nối truyền thống văn hóa tâm linh từ khi bắt đầu Kinh thành mang tên Thăng Long nghìn năm văn hiến:

“Dân tộc bốn ngìn năm văn hiến, khi thăng khi trầm vẫn tiếp bước của tiền nhân;

Đạo pháp hai ngìn năm lịch sử, lúc thịnh lúc suy luôn soi đường cho hậu thế.”

“Đạo Phật có mặt tại Việt Nam, với chiều sâu và bề dày lịch sử hơn 20 thế kỷ, đã cùng với dân tộc phấn đấu giành quyền cho một nước Việt Nam tự chủ, độc lập; đã gây dựng nên một nếp sống 'dân phong quốc tục' đẹp,  làm vẻ vang cho nòi giống Việt. Xuyên qua những đóng góp to lớn trong công cuộc dựng nước và giữ nước của Đạo Phật Việt, kể từ các Vương triều: Tiền và Hậu Lý Nam Đế (542 - 603) mở đầu nền tự chủ cho nước nhà; đến nhà Đinh (968 - 980) và Tiền Lê (980 - 1009), đạo Phật mặc nhiên được triều đình công nhận coi là quốc giáo của toàn dân; sang nhà Lý (1010 - 1225) và tiếp theo nhà Trần (1225 - 1400), đạo Phật lại càng được phát triển mạnh trong đời sống xã hội. Đồng thời mở mang trên khắp mặt sinh hoạt quốc gia, đem an vui hạnh phúc đến với toàn dân. Từ bi thương yêu tràn ngập thì đồng thời nền văn hóa Đại Việt cũng vươn lên tuyệt đỉnh vinh quang !”

(Trích Đạo Phật và dòng sử Việt - Thích Đức Nhuận)

“Phật đạo vô thượng chí tôn.
Quốc gia hữu vĩnh càn khôn vững bền.”

"Đạo Phật đã chung sống với người dân Việt hơn hai mươi thế kỷ, sợi dây liên lạc đã thắt chặt đạo Phật với dân tộc Việt Nam thành một khối bất khả phân ly. Tư tưởng đạo Phật đã thấm nhuần tinh thần dân tộc. Bởi sự liên hệ mật thiết này nên người dân Việt coi đạo Phật là đạo của tổ tiên truyền lại. Đạo Phật bị phá hoại thì tinh thần dân tộc cũng lung lay. Vì thế, để bảo vệ tinh thần dân tộc, gìn giữ tín ngưỡng truyền thống của tổ tiên, người Việt Nam tự thấy có bổn phận bảo vệ đạo Phật một cách hồn nhiên".

(Trích Đạo Phật trong mạch sống dân tộc - Thích Thanh Từ)

Quả thật!
“Mấy ngàn năm son sắt   
Trong dòng chảy Đạo-Đời
Việt Nam đất nước tôi
Đượm nhuần trang sử Phật.”
(Tâm Chơn)

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 3596)
“Này Cunda, nếu những gì thuộc quá khứhư vọng, không thật, không có lợi ích, Như lai không trả lời.
(Xem: 3757)
Sống trong thế giới đầy biến động của đại dịch COVID-19 bùng phát, mới thấy sự hiện hữu của con người trong mối tương quan
(Xem: 2895)
Khi Đức Phật còn hiện hữu cõi Ta-bà, chúng đệ tử xuất gia sống thanh tịnh, hòa hợp thành một thể thống nhất,
(Xem: 2679)
Ngoài Danh và Sắc, phần tâm linh và phần vật chất, là hai thành phần cấu tạo chúng sanh, Phật Giáo không chấp nhận
(Xem: 3184)
Ajhan Chah nói rằng nếu bạn muốn chuyển hóa tâm, bạn phải biết và chuyển hóa trái tim. Và khi thực hành bạn cảm thấy không thoải mái, muốn bỏ cuộc, đó là khi bạn biết mình đang đi đúng đường.
(Xem: 3670)
Giã từ cõi mộng điêu linh Tôi về buôn bán với mình phôi pha.
(Xem: 3271)
Những rộn ràng họp hội mấy giờ trước đã lắng xuống. Tiếng nói, giọng cười ai đó, đã tan vào hư không.
(Xem: 3346)
Những rộn ràng họp hội mấy giờ trước đã lắng xuống. Tiếng nói, giọng cười ai đó, đã tan vào hư không.
(Xem: 2948)
Học pháp là công việc quan trọng của người con Phật nếu muốn đạt được mục đích tối hậu của sự giải thoát.
(Xem: 3424)
Lắng nghe là một kỹ năng căn bản để kết nối cộng đồng. Lắng nghe để hiểu mình, hiểu người, để trút bỏ những ưu phiền, lạc quan vui sống, xây dựng xã hội tốt đẹp.
(Xem: 3772)
Pháp mang lại an bình, là nơi trú ẩn và hạnh phúc cho thế gian. Nếu thế giới bị tước đoạt Pháp, chúng ta không thể tìm thấy bất kỳ sự bình an nào ở đâu cả.
(Xem: 3599)
Vô Tầm Vô Tứ Định là nền tảng cơ bản của tất cả các loại Định trong Thiền Phật Giáo gồm chung cả ba hệ: Nguyên Thủy, Phát Triển và Thiền Tông.
(Xem: 3590)
Thiểu Dục là muốn ít; Tri túc là biết đủ. Muốn ít là đối với cái chưa có, mà vì nhu cầu, mong cho có.
(Xem: 2940)
Nói đến “Tâm” ai ai cũng hiểu được liền liền, nhưng đi sâu vào vấn đề là việc khác. Theo tôi được biết có nhiều người thường nói “Tâm” là (trái tim) có gì đâu mà diễn bày.
(Xem: 3591)
Theo nhà Phật thì trong kiếp này, có người “ở hiền” nhưng lại không được “gặp lành”, nguyên nhân là bởi họ phải “trả” những thứ đã “vay” ở trước đó!
(Xem: 3106)
Bồ tát là người tu tánh Không, ở trong tánh Không nhưng có lòng bi khi thấy chúng sanh vì không biết tánh Không nên điên đảo vọng tưởng
(Xem: 3620)
Kính số 52 Bát Thành có đoạn viết về sơ thiền một cách ngắn gọn như sau: “Ở đây, này Gia chủ, Tỷ-kheo ly dục, ly bất thiện pháp chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ”
(Xem: 3430)
Lời cầu nguyện được đức Đạt Lai Lạt Ma thứ mười bốn của Tây Tạng sáng tác, Vinh Danh và Nguyện Cầu Tam bảo Đại Bi: Đức Phật, Giáo Huấn, và Cộng Đồng Tâm Linh.
(Xem: 3417)
Cổ nhân có câu “họa tòng khẩu xuất” như muốn cảnh tỉnh, khuyên răn người đời chớ để cho cái miệng mình nói năng tùy tiện, lung tung mà có lúc tự rước họa vào thân!
(Xem: 3855)
Từ thuở ấu thơ cho đến lúc trưởng thành, có thể ai cũng từng được nghe những câu nói đại loại như: “Nếu không nói được gì tốt đẹp thì tốt nhất nên im lặng”.
(Xem: 3929)
Nếu kẻ nào cố ý tạo nghiệp, Ta nói rằng kẻ ấy phải thọ lấy quả báo. Hoặc thọ ngay trong đời hiện tại, hoặc thọ vào đời sau.
(Xem: 3300)
Trong Kinh Như Thị Ngữ (Itivutthaka), Đức Phật nói: "Tất cả những công đức mà ta thực hiện ở trên đời góp lại cũng không bằng công đức của sự thực tập Từ Quán.
(Xem: 3632)
Đức Phật khuyên ta mỗi ngày cần quán tưởng đến năm điều. Tất cả chúng ta đều biết những điều ấy, nhưng ta thường dễ quên.
(Xem: 3332)
Chủ đề khá nhạy cảm đã dẫn dắt vô số người trong quá khứ cũng như hiện tại; Phật tử cũng như tín đồ các Tôn giáo hiện nay ...
(Xem: 3150)
Trong Kinh Như Thị Ngữ (Itivutthaka), Đức Phật nói: "Tất cả những công đức mà ta thực hiện ở trên đời góp lại cũng không bằng công đức của sự thực tập Từ Quán.
(Xem: 3197)
Nếu bị người khác làm tổn thương, bạn vẫn cần yêu thương họ, nếu người khác khi dễ bạn, bạn phải tha thứ cho họ đấy gọi là rộng kết duyên lành.
(Xem: 4595)
Tuệ Trí của Đức Đạt Lai Lạt Ma là một phần trích từ xuất bản trước đó của quyển Năng lực của Từ bi
(Xem: 3570)
Quán niệm vô thường là một trong những nội dung tu tập căn bản của người Phật tử. Mọi sự mọi vật quanh ta luôn vận động, biến đổi từng phút, từng giây.
(Xem: 3123)
Xung quanh các hiện tượng mê tín dị đoan “có tổ chức” diễn ra gần đây, đã có nhiều ý kiến trái chiều về “con đường tu tập” với những...
(Xem: 4463)
Bụt đã từng sống với hàng ngàn vị khất sĩ túc trực xung quanh. Bụt cũng đi, cũng ngồi, cũng ăn cơm với những vị nam và nữ khất sĩ khác nhưng Ngài luôn an trú trong sự tĩnh lặng.
(Xem: 3386)
Chúng ta ai ai cũng biết, trong cuộc sống hiện tại đương thời, bây giờ là thời buổi khoa học đương thời đi lên.
(Xem: 3985)
Căn bản đời sống của chúng ta là đi tìm sự hạnh phúc và tránh né sự khổ đau, tuy nhiên điều tốt nhất mà ta có thể làm cho chính bản thân
(Xem: 4545)
Theo quan niệm của Phật giáo, Khổ (zh. 苦, sa. duḥkha, pi. dukkha) là cơ sở quan trọng của Tứ Diệu Đế.
(Xem: 3808)
Thoạt nhìn thì tánh Khôngtừ bi có vẻ ngược hướng nhau, vì tánh Không nhắm đến một thực tại tuyệt đối còn từ bi thì lại hướng về một thế giới và chúng sanh vô thường, tương đối.
(Xem: 3271)
Trong nền văn hóa của chúng ta, mọi người rất khó khăn để hướng sự yêu thương tử tế đến với chính bản thân họ.
(Xem: 3529)
Ngồi lắng lòng lại để cảm nhận từng hơi thở trong ta, nghe những thanh âm của cuộc sống và nghĩ về cuộc đời của những người ngoài kia,
(Xem: 3100)
Trong xã hội Ấn Độ thời cổ đại, vị trí người phụ nữ hãy còn thấp kém. Tôn giáo và các giáo phái đương thời không đồng tình cho người nữ xuất gia.
(Xem: 3304)
Trong đời sống thường nhật, nếu muốn được tự do tự tại tất phải thực hiện bằng được hai nguyên tắc “thiểu dục” và “tri túc”.
(Xem: 3799)
Theo lời Phật dạy, nhân quả là một định luật mang tính tất yếu. Gieo nhân lành thì được hưởng quả lành, tạo nhân ác thì chịu quả báo ác.
(Xem: 3786)
Phật dạy: “Không có gì là ngẫu nhiên”. Dường như nó cũng là một sự sắp xếp tưởng như vô tình mà lại hữu ý để loài người nhận ra những điều quan trọng, điều gì đó lớn hơn con virus...
(Xem: 3345)
Đã có quá nhiều bài trên các trang mạng nói đến chính giáotà giáo. Đứng góc độ nào để phân biệt chính và tà?
(Xem: 3236)
Theo Phật giáo, nghiệp là hành động có tác ý, chủ ý của thân (Kāya, 身), khẩu (Vacī, 口), ý (Mano, 意).
(Xem: 3209)
“Lại nói: Ta vừa khởi một tâm thì nó đã thuộc về quá khứ. Tâm ta chưa khởi mới gọi là vị lai. Chẳng phải tâm vị lai tức là tâm quá khứ, tâm hiện tại lại ở tại chỗ nào.
(Xem: 3139)
Phàm ở đời, những ai muốn xây dựng sự nghiệp lớn, đều phải có đức nhẫn nhục để vượt qua bao lần thất bại mới đạt được thành công.
(Xem: 3573)
Giữa tâm điểm đại dịch COVID-19 diễn ra một cách phức tạp trong đời sống thực tiễn không chỉ ở nước ta mà khắp cả các nước trên hành tinh này,
(Xem: 3396)
Muốn ít và biết đủ tiếng Hán gọi là “Thiểu dục-Tri túc”. Đây là hai khái niệm Phật học được đề cập nhiều trong Kinh tạng, Luật tạng cũng như trong Tạng vi diệu pháp.
(Xem: 3394)
Một người khi sắp mạng chung, hành trang để đi đến đời sống khác chắc chắn không phải là tiền bạc, danh vọng mà đó chính là nghiệp thiện hay ác của chính mình.
(Xem: 3466)
Dzongsar Khyentse Rinpoche lấy phim làm một ví dụ cho lời dạy của Đức Phật về luân hồi, niết bànbản thân đời sống.
(Xem: 3950)
Đức Phật nói rằng không thể có một đời sống tâm linh chân chính nếu không có một trái tim rộng lượng.
(Xem: 3424)
Giữa tâm điểm đại dịch COVID-19 diễn ra một cách phức tạp trong đời sống thực tiễn không chỉ ở nước ta mà khắp cả các nước trên hành tinh này,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant