Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thiền Học Việt Nam Qua Tư Tưởng Trần Nhân Tông

08 Tháng Giêng 202119:42(Xem: 3959)
Thiền Học Việt Nam Qua Tư Tưởng Trần Nhân Tông

Thiền Học Việt Nam Qua Tư Tưởng Trần Nhân Tông

Thích Trung Định

cam tho 2

Có thể nói rằng, thiền học Việt Nam Khơi nguồn từ Ngài Khương Tăng Hội với cốt tủy là thiền quán niệm hơi thở qua tác phẩm “An Ban Thủ Ý Kinh”, sau đó hưng thịnh ở các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần... Thiền học thời Trần bắt đầu từ Trần Thái Tông, nhưng Thiền học Yên Tử thật sự phát triển và hưng thịnh vào thời Trần Nhân Tông.

Vua Trần Nhân Tông tên thật là Trần Khâm, sinh ngày 11 năm Nguyên Phong thứ VIII (1258) là con trưởng của Trần Thái Tông và Nguyên Thành Thiên Cẩm hoàng hậu. Lúc sanh tiền Trần Nhân Tôngtướng mạo khác thường “nhan sắc như vàng, thần khí tươi sáng”.

Thuở nhỏ, Trần Nhân Tông được sự chăm sóc đầy đủ với tình thương yêu của phụ vương và hoàng hậu, đặc biệtsự giáo huấn kỹ càng để chuẩn bị kế tục sự nghiệp quốc gia. Ngài rất thông minh, hiếu học và thông suốt ngoại điển lẫn nội điển (kinh Phật) lại được sự giáo dục cởi mở. Có những lúc Ngài mời các vị thiền sư đến để cùng giảng cứu thiền học và Ngài đã từng tham cứu thiền với Tuệ Trung Thượng Sĩ. Do đó Trần Nhân Tông sớm nhập cốt tuỷ của thiền học.

Trần Nhân Tông là một vị vua anh hùng, Ngài đã từng là tổng chỉ huy cuộc chiến vệ quốc chống quân Nguyên Mông. Hơn thế nữa, Ngài còn là biểu tượng cho các khối đại đoàn kết toàn dân chống ngoại xâm và là người có nhiều biện pháp thu phục lòng người và nhiếp phục đối phương nhằm đem đến những lợi ích to lớn cho dân tộc. Nhiều danh tướng như Trần Hưng Đạo, Trần Nhật Duật, Trần Quốc Toản, Trần Bình Trọng, Trần Khánh Dư, Phạm Ngũ Lão ... đã xuất hiện trong thời kỳ này. Nhờ tài thao lược của họ mà nhà Trần đã và có nhiều chiến công hiển hách. Sự thành công này có thể nói là nhờ sự nhìn nhận và sử dụng nhân tài của Trần Nhân Tông. Qua đây ta thấy, Trần Nhân Tông là nhà quân sự, nhà chính trị, văn hoá, tư tưởng đại tài. Đặc biệt, về lĩnh vực tôn giáo, có thể ghi nhận công đức của Ngài trong việc xây dựng Thiền tông Phật giáo. Chính Ngài là người đã thắp sáng ngọn đuốc Thiền tông và là Sơ Tổ của dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử. Ngài đã chủ trương thống nhất các thiền phái Việt Nam trong trong vườn thiền người Việt. Đó là một sắc thái Thiền mang đậm nét đặc thù của Phật giáo Việt Nam với tinh thần tích cực dấn thân vào xã hội, xây dựng hưng thịnh xứ sở bằng từ bi, trí tuệđạo đức của Phật giáo.

Trần Nhân Tông được thân cận học hỏi giáo lý trí tuệ từ bậc thạc đức Tuệ Trung, là nhân duyên lớn, giúp cho Ngài thâm nhập sâu lòng đất giải thoát. Tuệ Sĩ như chắp thêm cánh đạo cho Điều Ngự đi vào vùng trời giải thoát bao la. Một thể cách giải thoát thực sự thực hiện trong đời sống chính trị, văn hoá, xã hội rất thiết thực, nhân bảntrí tuệ. Đây là một nhân duyên cho Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử ra đời, mang nét đặc thù của dân tộc Việt Nam, đồng thời mang tinh thần tuỳ duyên “Sống đời vui đạo”. Chính tinh thần “tùy duyên bất biến” là chiếc chìa khoá để mở tung cánh cửa thiền học Việt Nam mà Ngài là vị sơ tổ của Trúc Lâm Yên Tử. Sự chứng đắc của Tổ bằng con đường thực nghiệm tại núi Yên Tử, nơi đây Ngài đã cảm nhận được bản chất vô thường, vô ngã của thân ngủ uẩn qua những lần hạ sơn, hay phương pháp hành Tứ Niệm Xứ (quán thân bất tịnh, tâm vô thường, pháp vô ngã, thọ thì khổ) ngay trên thân Ngài. Chính giây phút này Ngài buông bỏ mọi vọng niệm, cấu uế trần tục để đạt thanh tịnh, an trú chánh niệm, lặng lẽ với núi rừng Yên Tử. Ngay đây, Ngài đã tuôn trào những bài thơ, kệ mang tính thiết thực của con Người chứng đắc. Trước buổi lễ khai đường ở Sùng Nghiêm Điều Ngự Giác Hoàng đã mở bài kệ:

“Thân như hơi thở qua buồng phổi

Kiếp tựa mây luồng đỉnh núi xa

Chim quyên đề đoạn nguyệt như trú

Đâu phải mùa xuân để luống qua”[1]

Đây là bài kệ cảnh tỉnh cho hàng môn đệ về sự vô thường và cũng là sự kinh nghiệm của Ngài đã trãi qua trên tấm thân tứ đại, đời sống của con người chỉ qua hơi thở, nó rất mong manh và cũng rất nhanh chóng trôi qua như gió thổi mây bay, mây bay có bao giờ dừng lại... Cũng tợ như cuộc đời nó luôn chuyển biến từ sanh, bệnh, lão, tử. “Mây bay gió thổi” là chỉ cho hiện tượng của con người luôn thay đổi biến dịch. Nhưng trong sự vô thường luôn chứa trọn “một mùa xuân” hay “nhất chi mai” ấy chính là tánh giác vốn tĩnh lặng của mỗi chúng sanh, nó rất vi diệu và nhiệm mầu nhưng chúng ta không biết tận hưởng cái giá trị vô ngần ấy.

Từ sở chứng đắc trong cuộc đời Điều Ngự Giác Hoàng đã biểu hiện mức độ uyên áo khác nhau qua thái độ sống, cách hành xử đầy khoan dung, nhân bảntrí tuệ. Lúc ở ngôi vị, Ngài là người yêu nước “thân dân” đầy trách nhiệmthể hiện tốt đẹp sự đoàn kết của dân tộc; lúc làm Thái Thượng Hoàng Ngài luôn dõi theo từng biến động của đất nước xã tắc mà không bao giờ phó mặc dân tộc cho vị vua đương trị vì. Lúc Thiền sư ở chốn sơn môn Ngài đã tự giác, giác tha, đã hoàn thành xã hội có một nền tảng đạo đức, nhân bản, và có cả một Giáo hội Phật giáo Việt Namkỷ cương, thống nhất tư tưởng và tổ chức hệ phái.

Đặc biệt Ngài đã xây dựng một nền tảng hoà bình lâu dài và mở mang bờ cõi, đó là việc thiết lập liên bang hữu nghị với Chiêm Thành. Suốt cuộc đời của Ngài là cuộc sống tự nhiên, tự tại vô ngã vị thadung dị. Ngài bảo:

“Niên thiếu chưa từng hiểu sắc không

Xuân sang hoa sắc vướng tơ lòng

Diện mục xuân nay từng khám phá

Thiền toạ an nhiên ngắm rụng hồng”[2]

Qua bài thơ ta như hiểu được về Ngài, lúc nhỏ Ngài chưa hiểu “sắc, không” nên mỗi độ xuân về thì thấy lòng nở hoa như bao người khác, nhưng khi đã thấy chúa xuân (bản lai diện mục) của chính mình thì không còn vui khi thấy hoa nở và buồn khi thấy hoa tàn, Ngài Điều Ngự đã tự tại trước mọi cảnh, an nhiên trước sắc trần, rất tự chủ và bình thản trước cuộc đời, dù đời có phiền toái hay rộn ràng, chính lúc ấy Ngài lắng lòng tìm lại sự an tĩnh của tâm .

“Muôn nghiệp lặng an nhàn thể tính

Nữa ngày rồi tự tại thân tâm”

Cõi lòng được thanh tịnh thì mọi thị phi, nhân ngã, chấp thủ đều lắng, chính đó là cõi tịnh độ hay cõi A Di Đà. Bởi vì tịnh độ ngay trong ta, tịnh độ không đâu xa, đâu phải nhọc công đi tìm tịnh độ ở phương Tây. Tịnh Độ chính là lúc “lòng rỗi” trong ta.

“Miễn được lòng rỗi

Chẳng còn pháp khác

Rèn tính lặng tính mới hầu an

Dứt niệm vọng niệm đình chẳng thác

Tột trừ nhân ngã thì ra tướng thực kim cương

Đình hết tham sân mới lão lòng đầy viên giác

Tịnh độ là lòng trong sạch chớ còn ngờ hỏi tây phương

Di Đà là tính lặng soi, mựa phải nhọc tìm về cực lạc

Xét thân tâm, luyện tĩnh thức, há rằng mong quả báo phô khoa

Cầm giới hạn, địch vô thường, nào có sá câu danh bản giác?”[3]

Bài kệ là sự minh xác về con đường cho mỗi người, ta chính là chủ nhân cho ta về cực lạc hay chốn Di Đà hay mãi mãi lang thang cầu xin an lạc ở một kẻ khác. Chính ta có thể làm cho ta an lạc mà không nương vào bất cứ một ai khác. Kinh Duy Ma Cật dạy: “Tâm tịnh tức tịnh độ”. Như vậy cần gì phải hỏi đường đến phương tây. Với trí huệ siêu việt Ngài đã khẳng định trong mỗi con người đều có đủ thánh-phàm, chúng ta hãy khéo léo lựa chọn. Điều Ngự Giác Hoàng đã đưa chúng ta khỏi mọi phân biệt, gạt bỏ mọi thuyết đối lập giữa Niết Bànđịa ngục, giữa ta và người, bởi vì các pháp vốn duyên sinh, không có một pháp nào độc lậptồn tại. Ngài tự tại sống trong cuộc sống bình thường, và đã chứng ngộ “thực tướng” của các pháp, cho nên không còn vướng kẹt vào các quan điểm có và không, hữu và ngã, tiểu và đại, bắc và nam Ngài cũng không còn tránh các sắc trần vì thế Ngài đã đạt “Sống đời vui đạo”.

“Ở đời vui đạo hãy tuỳ duyên

Đói cứ ăn đi, mệt ngủ liền

Có báu trong nhà thôi tìm kiếm

Vô tâm đối cảnh hỏi chi thiền”[4]

Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử đã được kế thừa tinh hoa của các dòng thiền trong quá khứ, nhưng qua đó Điều Ngự Giác Hoàng đã chắt lọc, đúc kết cùng với những kinh nghiệm thời đại Ngài đã tạo ra một diện mạo mới mang nét đặc sắc thiền học Việt Nam.

Tư tưởng “sống đời vui đạo” của sơ tổ Trúc Lâmcuộc đời Thiền, thiền chính là nắm bắt những sinh hoạt trong thực tế như ăn cơm, uống nước, mặc áo... đều là suối nguồn của Thiền. Tất cả đều là nguyên tắc tu đạo của Trần Nhân Tông. “Sống đời vui đạo” là một tinh thần tuỳ duyên nhưng rất thực tế trong cuộc sống, đây là một phương pháp sống có chánh niệm, tỉnh thức, là sự trở về nội tâm, là sự dừng lại của mọi vọng tưởng tham ái chấp thủ và là sự vắng lặng của mọi thị phi nhân ngã...

Thiền học Việt Nam không giới hạn ở đối tượng nào hay hoàn cảnh nào ở đâu cũng có thể thực hành thiền, miễn là hành giả biết thích nghi, ứng hợp với điều kiện với hoàn cảnh xảy ra chung quanh mình. Tuỳ duyên còn có nghĩa rằng hãy bằng lòng với cuộc sống và những gì mình đang có, mà không tham cầu hướng ngoại hay chấp thủ. Với tinh thần như vậy thì ngay trong hiện tại ta đã bắt gặp được những suối nguồn hạnh phúc thật sự. Sống bình thường “đói ăn, khát uống, mệt ngủ...” cũng nói lên tinh thần “tri túc” hay biết vừa đủ, tự mình biết đủ, khi đói thì ăn, khát thì uống, ăn uống trong chánh niệm tỉnh giác mà không mong cầu ăn thứ gì ngon hơn, hợp khẩu vị hơn. “Tùy duyên” hay giác tỉnh chính là con đường an trú trong hiện tại, mà không ước vọng tương lai hay nuối tiếc quá khứ, mà tâm biết cái “đang là” ở trước mắt. Cho nên cuộc sống tuỳ duyên giúp chúng ta không còn vướng mắc màu sắc hay cảnh trần trong cuộc đời. Tuỳ duyên đã hé mở cho chúng ta một lối nhìn, là hãy sống hết mình, sống có trách nhiệm, có bổn phận, sống có ý nghĩa của một con người trong xã hội, chứ không quay lưng hay thờ ơ với cuộc sống. Bởi vì “Phật pháp bất ly thế gian giác” chân lý giải thoát ở ngay trong cuộc đời này mà không phải ở đâu xa.

Tinh thần “Cư trần lạc đạo” không phải là con đường mặc tưởng, trầm tư mà phải đi bằng đôi chân vô trú, vô niệm để vào cuộc đời phục vụ nhân sinh, vũ trụ với ý thức vô ngã, hành động vô chấp và tấm lòng vị tha.

Qua đây chúng ta thấy cuộc đời của Ngài rất tự nhiên, tự tại và rất thích hợp với xã hội bấy giờ, đó là một lối sống hướng thượng, hướng chính mình, bằng nỗ lực của chính mình, bằng sự trở về của chính mình (gia trung hữu bảo hưu tầm mích) mà không một đấng thần linh nào cho mình được giải thoát. Đây chính là nói lên tinh thần tự độ của Phật Giáo, vừa biểu hiện tinh thần tự cường của dân tộc. Giác ngộ hạnh phúc an lạc nằm ngay nơi chính mình, nơi thái độ sống hay cách nhìn đời của mình, nơi ấy không còn khởi tham sân si, chấp thủ hay không còn chấp thủ đối với mọi cảnh. Đó chính là ý nghĩa đích thực của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử hay chính là tư tưởng của Trần Nhân Tông.

Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền” là cái nhìn về thực tại đang là trong cuộc sống, cảnh thế nào thì nhìn thế ấy, nhìn với tinh thần vô trú, vô niệm, vô phân biệt. Vô tâm ở đây đồng nghĩa với tinh thần "ưng vô sở trú nhi sanh kỳ tâm" tức là chỗ nhất thiết xứ vô tâm, mọi chỗ mọi nơi, lúc đi lúc đứng, nằm ngồi đều thường trú tự do, thân tâm thanh tịnh không một niệm nhiễm trước sắc trần. Vô tâm ở đây không phải là chạy trốn cuộc đời, hay là thờ ơ trước nỗi khổ của chúng sanh, mà phải sống hết mình, làm những gì có thể làm được để lợi lạc chúng sanh, với tinh thần vô trú - giác tỉnh.

Thiền phái Trúc Lâm là một phương pháp thiền rất phù hợp với hoàn cảnh của nước ta và cũng phù hợp với lời Phật dạy về thiền Tứ Niệm Xứ. Chúng ta có thể thực hành trong bốn oai nghi (đi, đứng, nằm, ngồi) ngay trong cuộc sống với tinh thần vô trú. Các thiền sư Việt Nam không dừng lại ở một phương pháp nào cả, mà tất cả đều là đối tượng để tu tập, để hành thiền dù bất cứ ở đâu và hoàn cảnh nào đều có thể thực hành như quán hơi thở, nhìn sự vô thường qua chiếc thân ngũ uẩn hay mây ngàn trăng gió.

“Chim hót nhởn nhơ hoa liễu dày

Bóng thềm nhà vẻ mây chiều bay

Chuyện đời khách đến thôi không hỏi

Cùng tựa lan can ngắm núi mây”[5]

Đây là cảnh rất thực của thiên nhiên có chim hót hoa đong đưa, có bóng thềm nhà và cả mây chiều, có khách đến nhưng không hỏi mà chỉ tựa lan can để ngắm núi cùng mây. Tất cả cảnh vật, người như hoà quyện vào nhau. Thi sĩ đang nhìn cảnh đẹp của thiên nhiên trời đất đang yên tĩnh, sự yên lặng quá khiến người đến nhưng chẳng mở lời hỏi mà cùng tất cả đều hoà nhập vào không gian tĩnh lặng. Đây là triết lý vô ngôn hay chính là Thiền, sự sâu lắng ấy không thể đem ngôn ngữ để diễn đạt mà chỉ có người trong cuộc mới lắng nghe và hiểu được, hay chúng ta có thể hiểu về ngài hơn khi đọc đến bài thơ “Trăng”:

“Đầy sách giường song chích bóng đèn

Sân thu sương bủa thoáng hơi đêm

Tiếng chày thức dậy đâu hay biết

Hoa mộc trên cành trăng mới lên”[6]

Qua đây, chúng ta đã bắt gặp cuộc đời của vị sơ tổ quá đơn giản, và rất gần gũi với thiên nhiên. Với cảnh đêm tịch mịch Ngài như ngủ thiếp đi từ lúc nào, nhờ có tiếng chày của người trong thôn xóm đã đánh thức Ngài tỉnh dậy thì chỉ thấy bóng đèn dầu với giường đầy sách, nhìn ra sân thấy sương mùa thu đã giăng đầy, đâu đó có người đang giã gạo, và thấy trăng mới nhô lên ở cành hoa mộc, không gian tịch mịch yên lặng ấy chính là biểu tượng cho một tâm hồn trong sánghồn nhiên không một vết bẩn. Lúc ấy chính là sự bừng sáng của tuệ giác. Cuộc sống rất giản dị mộc mạc, nhưng nơi ấy dường như Ngài đã đi qua nhiều lần và Ngài đã cảm thông với cuộc sống của người dân ở đó như Ngài đã từng lấy chiếc áo bào đắp cho người tù lạnh, xuất phát từ lòng thương yêu chúng sanh cao cả cho nên khi xuất gia cuộc sống của Ngài càng đơn giản hơn.

“Ăn rau ăn trái miệng chẳng hiềm đắng

Vận giấy vận sồi thân ngại chi đen bạc”

Như vậy, Thiền học đã trãi qua nhiều thời đại như Đinh, Lê, Lý, Trần, thời nào cũng có nhiều vị thiền sư lỗi lạc ra tay cứu đời, dấn thân vào xã hội để đem lại sự thái bình cho dân tộc bằng sức mạnh trí tuệ, bằng tinh thần vô ngã. Các thiền sư Việt Nam đã khoác lên vai mình ba đức tính: Bi - Trí - Dũng để tung hoành ngang dọc khi trực tiếp hay gián tiếp vào các triều đại cố vấn nhà vua để cứu đất nước khỏi ách nô lệ của giặc đem lại nền độc lập cho quốc gia. Tuy xông xáo tung hoành, nhưng từ sâu thẳm các thiền sư vẫn an nhiên bất động trước các đối tượng sắc trần danh lợi. Thấy cuộc đời nô lệ của dân tộc là một đêm dài đau khổ, ở đó chúng sanh đang kêu gào thảm thiết. Trước thế sự các thiền sư Việt Nam không đành khoanh tay đứng nhìn, cũng không thể toạ thiền ở chốn sơn môn mà lấy cuộc đời làm môi trường thiết yếu cho sự hành thiền và thực hành lý tưởng lợi tha. Vốn biết chiến tranh là mất mát, là tổn thương. Thế nhưng chỉ có con đường duy nhất là phải kháng chiến để bảo vệ đất nước và đem lại sự thanh bình cho dân tộc. Nếu không kháng chiến thì giang sơn Đại Việt mãi mãi đi vào bóng tối của giặc phương bắc và mãi mãi là người nô lệ. Vì đại nghĩa, vì sự còn mất của đất nước các thiền sư Việt Nam đã dũng cảm chống lại quân giặc, phù vua giúp nước.

Đặc điểm của Thiền tông Việt Namtinh thần vô ngã vị tha. Đây là một tinh thần tiêu biểu của Phật giáo, là mục đích, đồng thờinguyên nhânphương tiện chi phối mọi hoạt động thiết thực. Vô ngã, vị tha là hai yếu tố có quan hệ mật thiết chặt chẽ với nhau, tuỳ thuộc vào nhau. Đặc biệt là thời Lý - Trần, một giai đoạn có nhiều thử thách, đối đầu với quân xâm lược có tầm cỡ trên thế giới, để đạt mục đích giữ gìn độc lập cho đất nước đem lại hạnh phúc cho dân tộc, tinh thần này càng được bộc lộ rõ hơn, là xóa bỏ mọi rạn nứt, sự hiềm khích giữa vua tôi đều được hóa giải để tập trung vào mục đích chung vì tổ quốc Đại Việt, vì sự an lạc của dân tộc. Tư tưởng Thiền học của Trần Nhân Tông đã nói lên được tinh thần “Tuỳ duyên bất biến”, Ngài đã dấn thân vào cuộc đời để hoá độ. Hậu thế cảm nhận được một tấm lòng thanh khiết, “Hoà quang đồng trần” nhưng không bị nhuốm bụi trần, và “Cư trần lạc đạo” giữa cuộc đời đầy biến động này.

Ghi chú:

[1] Nguyễn Lang, Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, Nxb. Văn Hóa Hà Nội, 1994, tr. 374.

[2] Sđd, tr. tr. 391.

[3] Sđd, tr. 386-387.

[4] Lê Mạnh Thát, Toàn tập Trần Nhân Tông, Nxb. TP HCM, 2000, tr. 248.

[5] Sđd, tr. 296.

[6] Sđd, tr. 283.

Tạp chi Văn hóa Phật giáo số, 358.

Thích Trung Định

  • Thiền học Việt Nam
  • Trần Nhân Tông
Tạo bài viết
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13223)
Tự lựcyếu chỉ để mình vượt thoát mọi khổ đau, nó có được khi mình hiểu đến nơi đến chốn, khi mình biết thương mình thật sự.
(Xem: 13382)
Khi trong ta đã có tâm tuệ, mọi hành xử của ta đều có mặt của tuệ, nên chúng không bị đối ngại bởi những nhận thức hữu ngã...
(Xem: 13994)
Mỗi tuần lễ đều có hai ngày mà chúng ta không cần phải bận tâm lo âu đến và suy nghĩ đến. Ngày thứ nhứt là Hôm Qua...
(Xem: 13233)
Ngài có công lớn đem Phật giáo vào thế giới phương Tây, mang lại hòa hợp giữa các tôn giáo, trồng cây Bồ Đềvị trí tương xứng với nhân loại ngày nay.
(Xem: 13639)
Cuộc sống là phụ thuộc lẫn nhau. Để có được hạnh phúc, một người cần phải cống hiến nuôi dưỡng hết mình cho xã hội và cho tất cả chúng sinh.
(Xem: 13290)
Ờ, thì nôn nao, thì nhớ, thì… nôn nao. Nhớ hình bóng quê nhà, là nhớ mẹ. Nhớ lúc mẹ lật đật chạy từ trong nhà ra ngõ đón mình về.
(Xem: 13208)
Một vị Bồ tát đạt được giải thoát như một vị a la hán bồ tát trên con đường trở thành một vị Phật. Nhưng ngài không dừng ở đấy; ngài sẽ hoạt động xa hơn để đạt đến giác ngộ.
(Xem: 13008)
Nói đến Tết, chúng ta thường nghĩ tới một dịp vui đầu năm mới - Tết Nguyên đán (còn gọi là Tết cả)...
(Xem: 12514)
Kính đa tạ quý Ôn giảng sư, quý thầy, quý ni sư, quý sư cô luôn hiện diện đầy đủ trong lớp học để thời gian an cư ngắn ngủi tại PHVQT năm 2011
(Xem: 14125)
Đời sống của ngài hàng ngày theo một thời khóa giản dị. Ngài dậy trước khi hừng đông, một thời gian hoàn toàn êm ả và tĩnh lặng thật tuyệt hảo để thiền quán.
(Xem: 12413)
Mỗi ngày được lên trang nhà và đọc một câu chuyện đêm khuya cũng giúp mình tịnh tâm học hỏi được chút ít gì làm hành trang cho chính mình trên con đường tu tập nên mình vui lắm.
(Xem: 13001)
Với dân số khoảng hơn 6 triệu người và có tới 1.400 ngôi chùa lớn nhỏ, Lào là nước có tỉ lệ chùa cao nhất thế giới so với số dân.
(Xem: 13346)
Phật giáo vượt qua giới hạn của cá nhân-nhận ra sự thật của sự liên kết lẫn nhau có nghĩa là cùng tham gia với mọi người trong một thế giới rộng lớn hơn.
(Xem: 11709)
Giới trí thức Phật giáo luôn quan tâm đến nghiệp vận tôn giáo mình trên quê hương cũng như nơi đất khách. Họ vẫn ngồi lại mỗi khi có dịp, nỗi ưu tư được nêu ra...
(Xem: 12577)
Về phương diện tinh thần, hơi thở còn có khả năng làm lắng dịu và chữa trị những cảm xúc tuyệt vọng, lo âu, sợ hãi, bất an v.v... trong ta được bình phục.
(Xem: 13265)
Con người ta nếu sống chân thành, thật thà với chính mình, với người thì cái tâm ấy như vàng, như kim cương nên không sợ chi lửa.
(Xem: 13115)
Văn học Phật giáo có kể về những kỹ nữ là những Phật tử thuần thành. Trưởng lão ni kệ có kể về hai kỹ nữ, cũng là hai chị em Vimala và Sarama.
(Xem: 19456)
Thủ Dầu Một đầu tiên là địa danh vùng, rồi địa danh các đơn vị hành chính các cấp: hạt TDM (1869), tỉnh TDM (1899), thị xã TDM (1975).
(Xem: 13357)
Dù lý giải như thế nào đi nữa thì cũng dễ dàng nhận thấy là mối quan hệ tình cảm của con người là cái quan trọng nhất vượt lên trên cả tiền bạc, vật chất...
(Xem: 13529)
Ta phải thực tập chính niệm để duy trì cái thấy vô thường; cái thấy các pháp tương tác duyên khởi ở trong thế gian, đang bị vô thường bức hại...
(Xem: 17675)
Trước miếu Quan Âm mỗi ngày có vô số người tới thắp hương lễ Phật, khói hương nghi ngút. Trên cây xà ngang trước miếu có con nhện chăng tơ...
(Xem: 14100)
Tại biên giới của tỉnh Tây Khương sát với Tây Tạng có một bà lão sống cô độc, chồng và đứa con trai duy nhất của bà đã qua đời.
(Xem: 12950)
Một vị thiền sư nọ cất túp lều tranh trong rừng sâu sống ẩn dật tu luyện không tranh đua với đời. Thiền sư tiếp xúc với cỏ cây nhiều hơn con người cho nên tâm hồn ông rất thanh thản vô vi.
(Xem: 14034)
Thanh lọc tâm mình bằng cách thiền tập hoặc niệm Phật để tiếp xúc với năng lượng tĩnh lặng từ bên ngoài lẫn bên trong là cách làm của người tin Phật, có trí.
(Xem: 12147)
Có một thứ mà khi càng cho đi thì càng có thêm nhiều, đó là lòng tốt. Có một loại năng lượng nào càng sử dụng, thậm chí càng xài phí thì càng có nhiều thêm, đó là lòng tốt.
(Xem: 11885)
Thời giansự thật, nơi bôi xóa, giấu che và hiển lộ tất cả. Trong nghĩa ấy, thời gianlịch sử. Lịch sử được làm nên từ những ánh rực rỡ và những lặng thầm, trên đường đi của nhân loại.
(Xem: 13089)
Một ngày nọ, chàng trai muốn đi xuất gia. Chàng nói ý định này với người bạn thanh mai trúc mã của mình. Nàng thiếu nữ nghe xong thoáng buồn và hỏi lại...
(Xem: 13367)
Sơ suất có thể làm hại mình, hại người, nhất là trong những quyết định quan trọng. Đó là bài học tôi nghe được từ một người thầy.
(Xem: 11931)
Dầu cuộc đời có bận rộn và nhiêu khê đến đâu, hãy nhớ dừng lại để thở, để nhìn nụ cười trong những đóa hoa, mây bay trong tách cà phê thơm...
(Xem: 17044)
Công việc sẽ chiếm phần lớn cuộc đời bạn và cách duy nhất để thành công một cách thực sự là hãy làm những việc mà bạn tin rằng đó là những việc tuyệt vời.
(Xem: 12412)
Đức Phật đã khẳng định rằng nữ giới và nam giới đều bình đẳng trong khả năng chứng ngộ, và vì lý do đó Ngài đã cho phép họ được xuất gia...
(Xem: 12727)
Hè đến, những cánh phượng nhuộm đỏ một góc đường. Ta lại bồi hồi nhớ lại ký ức xưa cũ. Con đường đất, mái nhà xiu vẹo...
(Xem: 12307)
Hành trang đi vào trong vô thường để tìm chân thường, biết huyễn mộng vẫn đi vào huyễn mộng, để tìm lại con người chân thật, con người của thảnh thơi, thanh tịnh, hạnh phúc...
(Xem: 13995)
Mỗi bước chân và mỗi cái nhìn của mình có thể chế tác được năng lượng an lạc. Mình bước tới và mình biết là mình đang chạm vào tịnh độ.
(Xem: 12375)
Hạnh phúc luôn có mặt trên những chặng đường ta đi qua chứ không phải ở cuối con đường. Hạnh phúc có thể được tìm thấy trong từng phút giây ta sống...
(Xem: 11730)
Nếu mọi người, mọi nhà đều thực hành Luật Nhân Quả họăc biết sợ Nhân Quả thì thế giới này biến thành một Cung Trời mà chẳng cần phải bôn ba tìm kiếm Thiên Đường ở đâu khác.
(Xem: 12478)
Chư Phật Bồ tát xuất hiện ở đời vì chúng sinh mà khởi đại bi tâm, khải mê khai ngộ. Các Ngài đã phát đại nguyện ban vui cứu khổ, phụng sự cho chúng sinh mà không quản nại mọi khó khăn...
(Xem: 12968)
Khi bạn đau khổ, có những vấn đề, mắc bệnh ung thư, bệnh aids, rắc rối trong mối quan hệ, bất kỳ điều gì, hãy nghĩ: “Nguyện đại dương khổ đau sinh tử của tất cả chúng sinh khô cạn.”
(Xem: 13063)
Ở đây, mình đi tìm mùa xuân của lòng người, lòng mình, nên chỉ cần ngồi thật im, thật vững chãi và chế tác năng lượng mùa xuân...
(Xem: 12266)
Để có được sự trưởng dưỡng nội tâm, chúng ta cần phải sống chậm lại, chú ý lắng nghe nhiều hơn, nói ít đi, quan tâm nhiều hơn tới tiếng nói của nội tâm mình...
(Xem: 12323)
Trong cuộc sống cần rất nhiều thiện hạnh để nâng đỡ cho tinh thầnđời sống của chúng ta. Nếu không có những thiện hạnh, chúng ta sẽ dễ sao nhãng tinh thần...
(Xem: 11717)
Một phê bình luôn phải đặt vững trên nền tảng thực tại riêng của nó – thực tại mà nhãn quan của nó làm phát lộ, cái thực tại đặc thù bởi trong cách thức đặc thù mà liên hệ đến cái thực tại...
(Xem: 11776)
VNPG không phải là một phong trào hay một giai đoạn làm ăn phát đạt nhờ mua bán giỏi, mà là một nền tảng đạo đức chuyên biệt, dung chứa những tâm nguyện cao cả...
(Xem: 12107)
Chúng ta may mắn có một đạo Phật, dưới ánh sáng của Đấng Giác ngộ với tấm lòng Từ bi và Trí tuệ, xuất hiện trên cuộc đời uế trược nầy vì lợi ích cho trời người.
(Xem: 13132)
Lắng nghe mọi người, để hiểu và thương. Đó cũng là một cách nói rằng: tôi luôn có mặt cho mọi người, nhất là những người đang khổ đau.
(Xem: 12655)
Khi mình niệm hơi thở, nụ cười, là khi mình làm cho tâm mình lắng dịu, như hồ nước không gợn sóng, có nghĩa là mình có định.
(Xem: 13119)
Giác ngộ mới là cái cần làm, trong đó trước tiên là hiểu mình, đến hiểu bản chất của cuộc sống vạn vật, rồi quay lại với cuộc sống sôi động.
(Xem: 11685)
Thịt bò nói riêng và súc vật nuôi để làm thức ăn cho con người nói chung đã và đang tổn hại môi trường sinh thái.
(Xem: 14904)
Đức Đạt Lai Lạt Ma đã làm rõ ràng việc chúng ta có thể tha thứ ra sao nhưng vẫn tin rằng trong ý chí tự do chọn lựa, tất cả chúng tathể không phải hành động tổn hạithực hiện những điều tốt đẹp.
(Xem: 13871)
Có một ý thức trực giác về nghiệp quả - một sự hiểu biết rằng hạnh phúc, và bất hạnh của chúng ta tùy thuộc vào hành động của chúng ta...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant