Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Cầu Siêu Vì Lòng Từ Bi

15 Tháng Giêng 202119:41(Xem: 3674)
Cầu Siêu Vì Lòng Từ Bi
Cầu Siêu Vì Lòng Từ Bi

Thích Trung Hữu

Nghiệp & Dị Thục


Cầu siêu, cầu nguyện cho người chết sinh về cõi lành là một Phật sự phổ biến trong Phật giáo. Tuy nhiên, không phải ai cũng tin điều này. Tin hay không là quyền của mỗi người, riêng tôi thì vẫn thường xuyên cầu nguyện cho các vong linh.

Tôi xin chia sẻ tại sao tôi làm việc này.

Một số người có quan niệm rằng, đạo Phật là đạo của người sống chứ không phải đạo của người chết, cho nên chủ trương chỉ hóa độ người sống và phủ nhận hay thậm chí lên án việc cầu siêu cho người chết, cho rằng đó là mê tín, là trái với đạo Phật. Đúng là đạo Phật chủ trương độ sinh. Tuy nhiên, Đức Phật cũng đâu có cấm chúng ta độ tử. Nếu việc cầu siêu cho người qua đời là sai trái hay mê tín thì Đức Phật đã đưa vào trong giới cấm rồi. Nhưng rõ ràng không có bài kinh hay điều luật nào đề cập đến việc Đức Phật không cho độ tử. Điều này cho thấy rằng việc siêu độ cho người đã khuất nếu không phải là việc làm chính yếu của người tu thì nó cũng vô hại, và do đó người ta có thể thực hiện nếu như họ muốn hay cảm thấy cần thiết.

Có một điều chúng ta không thể phủ nhận: chết không phải là hết. Thời Đức Phật còn tại thế, ngài Mục-kiền-liên, bằng thần thông của mình, đã thấy rất nhiều ngạ quỷ trong hư không chịu nhiều thống khổ như là kết quả của ác nghiệp mà họ đã làm. Vào thời nhà Tống (Trung Quốc), ngài Bất Không Tam Tạng ở núi Mông chuyên tu Mật giáo, do nhìn thấy các loài ngạ quỷ đói khát, với lòng từ bi nên ngài đã cho họ ăn uống và đọc những câu thần chú để mỗi loài tự cảm thấy no đủ. Nhân đó, ngài đã soạn ra nghi thức Mông sơn thí thực để cúng thí cô hồn. Theo truyền thống đó, ngày nay hầu hết các chùa Bắc tông đều tụng Mông sơn thí thực vào thời công phu chiều mỗi ngày để mà cúng thí cho vong linh và các loài cô hồn. Tôi nghĩ rằng, cầu siêu không phải là một việc làm mê tín mà là thể hiện lòng từ bi của người đệ tử Phật, cứu giúp vong linh cũng cần thiết như cứu giúp những người sống hiện tại vậy.

Những người bài bác cầu siêu vì cho rằng đó là việc làm không thực tế vì chưa chắc cõi đó có thật. Thật ra cứu giúp ai là quyền của mỗi người. Ngay cả đối với người còn sống cũng vậy, người ta có quyền giúp hay không giúp. Nhưng nếu nghĩ rằng vì ta không biết cõi âm có hay không nên không giúp thì coi chừng ta đã quá vô tâm. Con người chết do nhiều lý do như chiến tranh, tai nạn, nghèo đói, bịnh tật, sát hại, tự tử… Họ chết nhưng không cam tâm, vì nặng nghiệptrở thành cô hồn, ngạ quỷ đói khát, bị đọa đày trong cảnh tối tăm. Họ cần lắm sự thương tưởng, quan tâm và nhất là những lời cầu nguyện của người còn sống. Ấy thế mà chúng ta đâu có thấy họ, đâu có nghe họ nói. Ta thử hình dung họ đã nhìn ta một cách tuyệt vọng như thế nào. Khi có người gửi tên cầu an cầu siêu vô chùa, thầy chúng tôi dạy rằng tên cầu an thì có thể đọc qua một lần cũng được, vì khi họ làm phước thì tự nhiên họ sẽ được an; nhưng tên cầu siêu phải đọc thật thành tâm để gửi năng lượng thiện lành cho họ và đọc nhiều lần cho vong linhthế giới bên kia nghe gọi tên mình mà thức tỉnh, rằng họ biết họ đã từ giã cõi trầntrở về nương tựa Tam bảo.

Thật ra một người nếu biết nghĩ đến những chúng sinh ở cõi khác thì chắc chắn người ấy sống rất có tâm đối với mọi ngườixã hội chứ không chỉ biết cúng kiếng cho người chết mà thôi. Bởi ngay cả những người họ không thấy mà còn thương thì làm sao họ không thương những cảnh khổ mà họ thấy rõ ràng trước mắt. Hơn nữa bởi họ biết rằng sẽ không thể giúp được gì nhiều sau khi chết đi nên họ càng đối xử với nhau thật tốt khi còn sống. Kế đó, họ sẽ động viên nhau tu hành để sau khi chết sẽ không trở thành cô hồn ngạ quỷ chịu đói chịu khổ. Cho nên cầu siêu tuy là việc làm dành cho người đã mất nhưng vẫn chứa đựng trong đó giá trị đạo đức và nhân văn rất thâm trầm và sâu sắc vậy.


Thích Trung Hữu



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 780)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 737)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 734)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 681)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 784)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 751)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 686)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 799)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 718)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 712)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 766)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 704)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 959)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 743)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 793)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 937)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1408)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 955)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 991)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 927)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 794)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 748)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 758)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 625)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1288)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1167)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1135)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1087)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1197)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1142)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1227)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1151)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1032)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1070)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1155)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1124)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1237)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(Xem: 1132)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
(Xem: 1206)
Hạnh phúc chính là sự bình an của thân thể và sự yên tĩnh của tâm hồn.
(Xem: 1195)
Cái vòng tròn vô hình lại quay trọn môt vòng, mùa thu lại về với đất trời Bắc Mỹ.
(Xem: 1105)
Trong Trung luận của Bồ tát Long Thọ luận giảng về tánh Không, phần nhiều là những câu phủ định.
(Xem: 1171)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1155)
Mỗi người trong cuộc sống này luôn có một thử thách để chinh phụcvượt qua, đó là gì?
(Xem: 1740)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1142)
Thế gian không có cái gì khổ cả, khổ chỉ là những ảo giác của con người.
(Xem: 1174)
Thực tập nhằm tăng cường khả năng tập trung hoặc chú ý đóng một vai trò quan trọng trong hầu hết các truyền thống tôn giáo lớn.
(Xem: 1087)
Trong phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm thứ nhất của Kinh Hoa Nghiêm, các thiên vương, các thần vương cho đến các Đại Bồ tát nói kệ tán thán Phật
(Xem: 1286)
Về pháp thiền quán vô thường tôi chia sẻ hôm nay, tôi sẽ không bàn đến đại vô thường như là cái chết, sự hủy diệt, sụp đổ hay sự chia ly.
(Xem: 1171)
Sau khi quy y Tam bảo, vì muốn tìm cầu tri thức, tôi đã nỗ lực nghiên cứu kinh điển. Kinh Phật mênh mông như biển cả,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant