Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vấn Đề Nam TôngBắc Tông

15 Tháng Ba 202119:57(Xem: 4268)
Vấn Đề Nam Tông Và Bắc Tông

VẤN ĐỀ NAM TÔNGBẮC TÔNG

Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm

Theo Dấu Chân Phật

 

Vấn đề Nam tôngBắc tông là một vấn đề tương đối rất cũ – cũ đến hơn một ngàn năm trăm năm kể từ ngày con người có được cái hạnh phúc biết đến giáo pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.

Đây là một vấn nạn đã từng được lập đi lập lại như một dấu xe lăn trên con đường mòn, nhưng tiếc thay, con đường mòn đó không phải là Đường Đạo (The Way of Enlightenment). Nếu đã không phải là con đường dẫn đến giải thoát thì đó không còn là vấn đề lớn trong đại đa số Phật tử chúng ta; mà trái lại, đó chính là một chướng ngại lớn đến từ một cảnh giới của thức, hoặc có thể gọi là từ một trình độ trí thức của cái gọi là “sở tri chướng sở tri” theo lối nhìn của Thiên Thai Trí Giả (538-597).

Một khi đây là một vấn đề quá cũ kỹ thì câu hỏi và câu trả lời hẳn nhiên cũng không phải là mới, nghĩa là cả hai Vấn và Đáp đều lập lại từ trăm năm này qua trăm năm khác. Như vậy thì không phải là vấn đề “lớn” này cần đến lúc phải chấm dứt ư?.

Trước khi nói về cái hiểu biết chưa đạt đến cái gọi là Diệu Trí của chúng ta đã chướng ngại chúng ta như thế nào, người viết xin nói qua một vài dòng (với phạm vi giới hạn của một email) về Pháp Môn, Phật Lý, Chân Lý, Sở Tri Chướng; là một vài đề mục liên quan đến việc “khai tử” cho vấn đề lớn này, mà nơi đó, ông cha chúng ta, chính bản thân chúng ta, và có thể con cháu chúng ta đã, đang, và sẽ thảo luận, cũng như tranh cãi.

1.   Pháp Môn (Dharmaparyàya):

 Pháp tức là những lời dạy của Đức Phật. Pháp này là cửa ngõ cho các cõi trong 9 pháp giới Địa ngục, Ngạ Quỷ, Súc sinh, Người, Trời, A tu la, Thanh văn, Duyên giác, và Bồ tát tháo mở tập khí, thấy, hiểu, và vào được chân lý thì gọi là Môn. Khi đã nói đến 9 pháp giới thì dân cư trong 9 pháp giới này hẳn là có căn tánh khác nhau từ những chủng tử khác nhau mang theo từ Tạng thức A lại da luân chuyển, thay hình đổi dạng qua nhiều kiếp. Một khi Phật nói pháp cho 9 căn tánh khác nhau thì pháp Phật nói ra đương nhiên không phải là pháp cố định. Một khi không phải là pháp cố định thì pháp đó trở thành phương tiện tùy nghi, khế hợp với từng căn cơ sai biệt. Trong Tứ Tất Đàn gọi là Thế tục tất đàn, Vị nhân tất đàn, và Đối trị tất đàn, tức không phải là Đệ nhất nghĩa nhưng bao quát hết 12 bộ kinh, tám vạn bốn ngàn pháp tạng, hiển dương Thực Tướng; theo Đại Trí Độ Luận. Một khi pháp môn trở thành phương tiện khế hợp căn cơ thì Phật tử chúng ta có cần nhất quyết phải tranh cãi (đến 1.500 năm), để cho rằng pháp môn mình chọn là pháp môn hạng nhất không? Có cần phải xác quyết bài pháp Phật dạy ngày đó, tháng đó, giờ đó… mới là bài pháp tối thượng không?. Thật sự, bài pháp nào Đức Phật dạy cũng là bài pháp tối thượng, nhưng tối thượng cho một căn tánh nào đó khế hợp được với lời Ngài dạy vào thời điểm đó mà thôi. Câu trả lời này của quý Phật tử cũng là đã trả lời luôn cho câu hỏi về giáo pháp Tiểu thừa, Đại thừa, Thiền Tông, Tịnh Độ Tông v.v… pháp nào phải là pháp hạng nhất.

2.  Phật lý:

Viết đến đây khiến tôi nhớ lại những ngày còn cắp sách đến Đại học Văn Khoa những năm 1971-1975. Quy chế thi cử của Văn Khoa là một thí sinh thi đậu phần Thi Viết thì còn phải đậu cả phần Vấn Đáp nữa mới được cấp chứng chỉ cho năm học đó (còn gọi là Tín chỉ). Lúc tôi vào thi Vấn Đáp cho Tín Chỉ “Lịch sử Triết học Đông Phương”, ông Giáo Sư với cặp kính dầy cộm, rất khó tính, ngay giây phút hồi hộp đó lại viết đề thi rõ ràng lên bảng đen. Đây là một điều kỳ lạ, bỡi vì thi Vấn Đáp thì từng thí sinh lần lượt lên bục trả lời, nếu đề thi đã được công khai thì trong khi chờ đợi đến phiên mình, thí sinh có thể tha hồ mở sách tìm câu trả lời, đúng không?. Mặc dù Văn Khoa là một đại họctruyền thống đánh rớt 70% thí sinh Thi Viết, nhưng con số thí sinh còn lại không phải là ít.

Đề thi được công khai viết lên bảng là: “Thế nào là một quyển sách hay?”. Với đề thi này thì câu trả lời không có trong các tập sách thí sinh mang theo trong cặp, cũng không có trong đống sách ở nhà hoặc trong thư viện.

Sau cả tiếng đồng hồ bối rối, tên tôi cũng đến lượt lên trả lời. Thôi thì tôi liệt kê hết tất cả danh từ nào mà mình biết và nhớ được, nào là nhân bản, nhân sinh, nhân vị, chuyển tải được đạo đức, công bằng v.v… ông Thầy đều lắc đầu thất vọng. Sau cùng Thầy tôi nói: “Là một quyển sách hay nếu quyển sách đó có thể mang lại hạnh phúc cho con người”.

Trở lại với Vấn Đề Lớn của chúng ta, nếu bất cứ hệ thống truyền thừa nào của Đức Phật khế hợp được với căn tánh người nghe, mang lại hạnh phúc cho người nghe thì đối với người đó, hệ thống truyền thừa đó hay, và là hay nhất. Điều này áp dụng vào cả các thể chế chính trị, giáo dục, xã hội…

3.   Chân lý:

Khi nói đến hai chữ Chân Lý ở đây, tôi muốn nói đến Chân Kinh (do Phật thuyết), và Kinh Ngụy Tác (không phải do Phật thuyết).

Về Chân Kinh thì tất cả Phật tử không xa lạ gì với các phương pháp phân định thời kỳ Phật thuyết kinh của các tông phái nổi tiếng như Hoa Nghiêm Tông, Thiên Thai Tông … mỗi tông mỗi vẻ; thiết nghĩ không cần phải nhắc lại.

Về Kinh  được cho là Ngụy Tác, theo Giáo Sư Paul L. Swanson trong quyển “Nền tảng Phật học Thiên Thai Tông” (Foundations of T’ien T’ai Philosophy), tôi xin chép lại một đoạn trong bản dịch của tôi xuất bản tại Saigon năm 2010:

“Một bảng liệt kê các bản văn được tin hoặc nghi ngờ là các bản kinh ngụy tác tại Trung Hoa gồm những kinh và luận quan trọng và có ảnh hưởng trong Sino-Japanese Buddhism. Bảng kể tên này có những tên quan trọng như: kinh Phạm Vương (còn được gọi là Mahayana Bharmajala), kinh Quán Vô Lượng Thọ, luận Khởi Tín, kinh Vô Lượng Nghĩa, và một số kinh khác. Những bản văn này không những gây được ảnh hưởng trong dân chúng mà còn tạo tiếng vang trong giới học giả Phật giáo. Tôi (Paul Swanson) đã chọn chữ “ngụy tác” (apocryphal) thay vì dùng chữ “bịa đặt” (forgery) hoặc “giả mạo” (pseudepigrapha), hoặc những việc giả dối (spurious works), vì tôi muốn tránh đưa ra cái nhìn phủ định đến từ những danh từ này. Những bản văn này “giả” với nghĩa không phải là nguyên văn của ứng thân Phật Thích Ca Mâu Ni, chắc chắn như vậy, nhưng không phải là “giả” với ý nghĩa các bản văn này mang một nội dung sai lầm, hoặc dạy người những việc phỉnh phờ. Sau cùng, Đại Trí Độ Luận nói: “Phật pháp không chỉ là những Chữ và Lời được nói ra từ Đức Phật, mà tất cả những ngôn từ chân thực, thiện lành, sâu xa, và an lạc trong thế giới này đều nằm trong Phật pháp”.

Huống chi chữ và lời chỉ là những phương tiện giả lập, tạo tác. Tùy căn cơ chúng sinh khác nhau mà việc hóa độ của chư Phật có khác nhau. Kinh Lăng Già A Bạt Đa La đã từng nói rất rõ rằng có cõi Phật tạo hình tướng để thuyết pháp, có cõi không cần hình tướng. Có cõi không dùng ngôn ngữ trừ khi tùy duyên tạo tác, làm như không làm thì chỗ nào gọi là có tánh cố đinh?. Không phải chỉ có ngôn từ, âm thanh, mà hương vị xúc pháp đều là kinh giáo, đều có thể hiển bày Phật lý. Pháp do nhân duyên hòa hợp thì giáo pháp cũng do nhân duyên hòa hợphiển hiện trong từng thời điểm khác nhau, cho từng đối tượng khác nhau, đối trị từng căn tánh khác nhau của chúng sinh.

4.  Sở Tri Chướng:

Về Sở Tri Chướng (Jneyavarana), Giáo sư Paul Swanson, trong quyển “Thiền và Chỉ Quán” (Ghi chú: Chỉ Quán ở đây chỉ cho phương pháp Chỉ và Quán của Thiên Thai Trí Giả. Về thứ bậc cao thấp thì có quyển “Chỉ Quán tọa thiền pháp pháp yếu” còn gọi là Đồng Mông Chỉ Quán dành cho người sơ cơ; và 9 quyển Maha Chỉ Quán dành cho các hành giảcăn tánh cao hơn), viết như sau. Tôi cũng xin chép lại một đoạn ngắn trong bản dịch của tôi xuất bản tại Saigon, năm 2011. Sở Tri Chướng được Paul Swanson gọi là Wisdom-Obstacle qua Anh ngữ:

“Chúng ta thấy ngay rằng Thiên Thai Trí Giả đã giải thích Sở Tri Chướng (Jneyavarana) là chướng ngại ĐỐI VỚI trí tuệ, và cũng là Chướng Ngại TỪ trí tuệ (sinh ra). Thí dụ, giống như 62 loại biên kiến. Những biên kiến này mặc dù mang theo sự khôn ngoan và thông minh, nhưng đây cũng chỉ là trí thế gian. Nếu hành giả mong cầu trí vô lậu, thì chính sự khôn ngoan, kèm theo hí luận này, cùng với những cái thấy sai lệch, trở thành chướng ngại cái thấy chân thực. Cũng như vậy, trí tuệ về Nhị Đế, cùng với vô minh trở thành chướng ngại Trung Đạo. Đây gọi là Trí Chướng, vì chỉ cho cả hai: cái gây chướng ngại và cái bị chướng ngại.”

Tóm lại, một hành giả không nên trở thành nạn nhân của chính mình trên con đường tu tậpbiên kiếnthành kiến tự mình tạo ra. Thêm vào đó, tôi nghĩ rằng chữ Hành này có thể đọc là Hạnh; và nên được hiểu là Hạnh; tức Đức Hạnh của người học và tu tập theo Phật pháp. Muốn tăng trưởng Trí Tuệ thì điều cần yếu là phải kiểm điểm Đức Hạnh. Cái Trí không phát sinh từ Đức Hạnh thì đó cái trí đó không phải là Trí Tuệ. Nói về điều này tôi cũng có ý nói đối với một số nơi, các thời khóa (hành) đã trở nên máy móc như một việc phải làm trong một ngày; khiến việc tư duy trở nên giới hạn và sai lệch.

Để kết luận, và cũng để tính cách luận lý giảm bớt cường độ khô khan, tôi xin tặng quý Phật tử 8 câu thơ cuối trích trong bài Thủy Chung tôi gởi cho tangthuphathoc.net nhiều năm trước.

“Trang kinh cuộn giấu thầm tâm kiêu mạn,
Mỏ chuông khua xé rạn cõi tịch hư.
Chia đôi bờ bỉ thử, gắng công dư
Khắc đạo lý lên màu tâm hồng, tía.
Câu huyền ca ẩn tàng kinh huyền nghĩa,
Huyền lại huyền, biết mấy kẻ tri âm.
Thấy kệ kinh, chẳng thấy tánh tức tâm,
Dùng thế trí vẽ vời lời chư Phật.”

 

Trân trọng,

Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm
Tháng Hai năm 2021

 
___________________________________
Bài đọc thêm:
Thế Nào Là Kinh Điển Ngụy Tạo Trong Phật Giáo (Thích Lệ Thọ)
Kinh Ngụy Tạo (Apocrypha) (BS. Phạm Doãn dịch)




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11169)
Trong đạo Phật, cái thương đích thực nó được làm bằng cái hiểu, không hiểu thì không có thương. Cha mà nếu không hiểu con thì càng thương con, con càng khổ.
(Xem: 13237)
Tự lựcyếu chỉ để mình vượt thoát mọi khổ đau, nó có được khi mình hiểu đến nơi đến chốn, khi mình biết thương mình thật sự.
(Xem: 13395)
Khi trong ta đã có tâm tuệ, mọi hành xử của ta đều có mặt của tuệ, nên chúng không bị đối ngại bởi những nhận thức hữu ngã...
(Xem: 14000)
Mỗi tuần lễ đều có hai ngày mà chúng ta không cần phải bận tâm lo âu đến và suy nghĩ đến. Ngày thứ nhứt là Hôm Qua...
(Xem: 13246)
Ngài có công lớn đem Phật giáo vào thế giới phương Tây, mang lại hòa hợp giữa các tôn giáo, trồng cây Bồ Đềvị trí tương xứng với nhân loại ngày nay.
(Xem: 13639)
Cuộc sống là phụ thuộc lẫn nhau. Để có được hạnh phúc, một người cần phải cống hiến nuôi dưỡng hết mình cho xã hội và cho tất cả chúng sinh.
(Xem: 13294)
Ờ, thì nôn nao, thì nhớ, thì… nôn nao. Nhớ hình bóng quê nhà, là nhớ mẹ. Nhớ lúc mẹ lật đật chạy từ trong nhà ra ngõ đón mình về.
(Xem: 13211)
Một vị Bồ tát đạt được giải thoát như một vị a la hán bồ tát trên con đường trở thành một vị Phật. Nhưng ngài không dừng ở đấy; ngài sẽ hoạt động xa hơn để đạt đến giác ngộ.
(Xem: 13017)
Nói đến Tết, chúng ta thường nghĩ tới một dịp vui đầu năm mới - Tết Nguyên đán (còn gọi là Tết cả)...
(Xem: 12521)
Kính đa tạ quý Ôn giảng sư, quý thầy, quý ni sư, quý sư cô luôn hiện diện đầy đủ trong lớp học để thời gian an cư ngắn ngủi tại PHVQT năm 2011
(Xem: 14136)
Đời sống của ngài hàng ngày theo một thời khóa giản dị. Ngài dậy trước khi hừng đông, một thời gian hoàn toàn êm ả và tĩnh lặng thật tuyệt hảo để thiền quán.
(Xem: 12415)
Mỗi ngày được lên trang nhà và đọc một câu chuyện đêm khuya cũng giúp mình tịnh tâm học hỏi được chút ít gì làm hành trang cho chính mình trên con đường tu tập nên mình vui lắm.
(Xem: 13009)
Với dân số khoảng hơn 6 triệu người và có tới 1.400 ngôi chùa lớn nhỏ, Lào là nước có tỉ lệ chùa cao nhất thế giới so với số dân.
(Xem: 13350)
Phật giáo vượt qua giới hạn của cá nhân-nhận ra sự thật của sự liên kết lẫn nhau có nghĩa là cùng tham gia với mọi người trong một thế giới rộng lớn hơn.
(Xem: 11713)
Giới trí thức Phật giáo luôn quan tâm đến nghiệp vận tôn giáo mình trên quê hương cũng như nơi đất khách. Họ vẫn ngồi lại mỗi khi có dịp, nỗi ưu tư được nêu ra...
(Xem: 12579)
Về phương diện tinh thần, hơi thở còn có khả năng làm lắng dịu và chữa trị những cảm xúc tuyệt vọng, lo âu, sợ hãi, bất an v.v... trong ta được bình phục.
(Xem: 13275)
Con người ta nếu sống chân thành, thật thà với chính mình, với người thì cái tâm ấy như vàng, như kim cương nên không sợ chi lửa.
(Xem: 13122)
Văn học Phật giáo có kể về những kỹ nữ là những Phật tử thuần thành. Trưởng lão ni kệ có kể về hai kỹ nữ, cũng là hai chị em Vimala và Sarama.
(Xem: 19469)
Thủ Dầu Một đầu tiên là địa danh vùng, rồi địa danh các đơn vị hành chính các cấp: hạt TDM (1869), tỉnh TDM (1899), thị xã TDM (1975).
(Xem: 13357)
Dù lý giải như thế nào đi nữa thì cũng dễ dàng nhận thấy là mối quan hệ tình cảm của con người là cái quan trọng nhất vượt lên trên cả tiền bạc, vật chất...
(Xem: 13531)
Ta phải thực tập chính niệm để duy trì cái thấy vô thường; cái thấy các pháp tương tác duyên khởi ở trong thế gian, đang bị vô thường bức hại...
(Xem: 17688)
Trước miếu Quan Âm mỗi ngày có vô số người tới thắp hương lễ Phật, khói hương nghi ngút. Trên cây xà ngang trước miếu có con nhện chăng tơ...
(Xem: 14102)
Tại biên giới của tỉnh Tây Khương sát với Tây Tạng có một bà lão sống cô độc, chồng và đứa con trai duy nhất của bà đã qua đời.
(Xem: 12964)
Một vị thiền sư nọ cất túp lều tranh trong rừng sâu sống ẩn dật tu luyện không tranh đua với đời. Thiền sư tiếp xúc với cỏ cây nhiều hơn con người cho nên tâm hồn ông rất thanh thản vô vi.
(Xem: 14046)
Thanh lọc tâm mình bằng cách thiền tập hoặc niệm Phật để tiếp xúc với năng lượng tĩnh lặng từ bên ngoài lẫn bên trong là cách làm của người tin Phật, có trí.
(Xem: 12155)
Có một thứ mà khi càng cho đi thì càng có thêm nhiều, đó là lòng tốt. Có một loại năng lượng nào càng sử dụng, thậm chí càng xài phí thì càng có nhiều thêm, đó là lòng tốt.
(Xem: 11891)
Thời giansự thật, nơi bôi xóa, giấu che và hiển lộ tất cả. Trong nghĩa ấy, thời gianlịch sử. Lịch sử được làm nên từ những ánh rực rỡ và những lặng thầm, trên đường đi của nhân loại.
(Xem: 13091)
Một ngày nọ, chàng trai muốn đi xuất gia. Chàng nói ý định này với người bạn thanh mai trúc mã của mình. Nàng thiếu nữ nghe xong thoáng buồn và hỏi lại...
(Xem: 13380)
Sơ suất có thể làm hại mình, hại người, nhất là trong những quyết định quan trọng. Đó là bài học tôi nghe được từ một người thầy.
(Xem: 11934)
Dầu cuộc đời có bận rộn và nhiêu khê đến đâu, hãy nhớ dừng lại để thở, để nhìn nụ cười trong những đóa hoa, mây bay trong tách cà phê thơm...
(Xem: 17052)
Công việc sẽ chiếm phần lớn cuộc đời bạn và cách duy nhất để thành công một cách thực sự là hãy làm những việc mà bạn tin rằng đó là những việc tuyệt vời.
(Xem: 12416)
Đức Phật đã khẳng định rằng nữ giới và nam giới đều bình đẳng trong khả năng chứng ngộ, và vì lý do đó Ngài đã cho phép họ được xuất gia...
(Xem: 12735)
Hè đến, những cánh phượng nhuộm đỏ một góc đường. Ta lại bồi hồi nhớ lại ký ức xưa cũ. Con đường đất, mái nhà xiu vẹo...
(Xem: 12310)
Hành trang đi vào trong vô thường để tìm chân thường, biết huyễn mộng vẫn đi vào huyễn mộng, để tìm lại con người chân thật, con người của thảnh thơi, thanh tịnh, hạnh phúc...
(Xem: 13999)
Mỗi bước chân và mỗi cái nhìn của mình có thể chế tác được năng lượng an lạc. Mình bước tới và mình biết là mình đang chạm vào tịnh độ.
(Xem: 12378)
Hạnh phúc luôn có mặt trên những chặng đường ta đi qua chứ không phải ở cuối con đường. Hạnh phúc có thể được tìm thấy trong từng phút giây ta sống...
(Xem: 11732)
Nếu mọi người, mọi nhà đều thực hành Luật Nhân Quả họăc biết sợ Nhân Quả thì thế giới này biến thành một Cung Trời mà chẳng cần phải bôn ba tìm kiếm Thiên Đường ở đâu khác.
(Xem: 12485)
Chư Phật Bồ tát xuất hiện ở đời vì chúng sinh mà khởi đại bi tâm, khải mê khai ngộ. Các Ngài đã phát đại nguyện ban vui cứu khổ, phụng sự cho chúng sinh mà không quản nại mọi khó khăn...
(Xem: 12976)
Khi bạn đau khổ, có những vấn đề, mắc bệnh ung thư, bệnh aids, rắc rối trong mối quan hệ, bất kỳ điều gì, hãy nghĩ: “Nguyện đại dương khổ đau sinh tử của tất cả chúng sinh khô cạn.”
(Xem: 13063)
Ở đây, mình đi tìm mùa xuân của lòng người, lòng mình, nên chỉ cần ngồi thật im, thật vững chãi và chế tác năng lượng mùa xuân...
(Xem: 12268)
Để có được sự trưởng dưỡng nội tâm, chúng ta cần phải sống chậm lại, chú ý lắng nghe nhiều hơn, nói ít đi, quan tâm nhiều hơn tới tiếng nói của nội tâm mình...
(Xem: 12336)
Trong cuộc sống cần rất nhiều thiện hạnh để nâng đỡ cho tinh thầnđời sống của chúng ta. Nếu không có những thiện hạnh, chúng ta sẽ dễ sao nhãng tinh thần...
(Xem: 11725)
Một phê bình luôn phải đặt vững trên nền tảng thực tại riêng của nó – thực tại mà nhãn quan của nó làm phát lộ, cái thực tại đặc thù bởi trong cách thức đặc thù mà liên hệ đến cái thực tại...
(Xem: 11781)
VNPG không phải là một phong trào hay một giai đoạn làm ăn phát đạt nhờ mua bán giỏi, mà là một nền tảng đạo đức chuyên biệt, dung chứa những tâm nguyện cao cả...
(Xem: 12112)
Chúng ta may mắn có một đạo Phật, dưới ánh sáng của Đấng Giác ngộ với tấm lòng Từ bi và Trí tuệ, xuất hiện trên cuộc đời uế trược nầy vì lợi ích cho trời người.
(Xem: 13143)
Lắng nghe mọi người, để hiểu và thương. Đó cũng là một cách nói rằng: tôi luôn có mặt cho mọi người, nhất là những người đang khổ đau.
(Xem: 12675)
Khi mình niệm hơi thở, nụ cười, là khi mình làm cho tâm mình lắng dịu, như hồ nước không gợn sóng, có nghĩa là mình có định.
(Xem: 13138)
Giác ngộ mới là cái cần làm, trong đó trước tiên là hiểu mình, đến hiểu bản chất của cuộc sống vạn vật, rồi quay lại với cuộc sống sôi động.
(Xem: 11711)
Thịt bò nói riêng và súc vật nuôi để làm thức ăn cho con người nói chung đã và đang tổn hại môi trường sinh thái.
(Xem: 14927)
Đức Đạt Lai Lạt Ma đã làm rõ ràng việc chúng ta có thể tha thứ ra sao nhưng vẫn tin rằng trong ý chí tự do chọn lựa, tất cả chúng tathể không phải hành động tổn hạithực hiện những điều tốt đẹp.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant