Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thực Tập Hạnh Lắng Nghe Và Thấu Hiểu Theo Bồ Tát Quán Thế Âm

04 Tháng Sáu 202119:32(Xem: 3544)
Thực Tập Hạnh Lắng Nghe Và Thấu Hiểu Theo Bồ Tát Quán Thế Âm
Thực Tập Hạnh Lắng Nghe Và Thấu Hiểu Theo Bồ Tát Quán Thế Âm  

Thích Trung Định


mua xuan cua hien tai
 














Lắng nghe và thấu hiểu là hai chất liệu vô cùng cần thiết để hiến dâng cho đời, có khả năng xóa đi những nỗi khổ niềm đau, nội kết và thù hận, mang lại an lạc hạnh phúc cho mọi người. Nỗi đau khổ của con người cần phải được xoa dịu bằng tình thương, chỉ có chất liệu yêu thương mới xóa hết hận thù. Thiếu tình thương cuộc đời sẽ trở thành bãi sa mạc hoang vu. Tình thương sẽ mở cửa tâm hồn, tưới tẩm làm cho hạt giống thiện lành hé nở. Vì thế, hành giả trên bước đường hành Bồ tát Đạo phải thực tập hạnh lắng nghe và thấu hiểu, phải hội đủ bốn âm thanh và quán sâu năm pháp quán theo kinh Phổ Môn. Bốn âm thanh đó là: Diệu âm, Quán thế âm, Phạm âm, Hải triều âm. Và năm quán:

Chơn quán, Thanh tịnh quán
Quãng đại trí tuệ quán

Bi quánTừ quán
Thường nguyện thường chiêm ngưỡng.

“Từ” là luôn luôn đem niềm vui đến cho người khác, “bi” là phương châm, là cách thức hành động để cứu khổ. “Từ” là lòng yêu thương, “bi” là ra tay cứu giúp và dấn thân, nỗ lực làm việc để cứu giúp. Từ bi là cho vui và cứu khổ một cách vô tư, bình đẳng, không bị thời gian chi phối, không bị không gian ngăn cách, không phân biệt thân sơ, giàu nghèo, thương người như thương mình, cứu người như cứu mình. Bản chất của từ bi không ẩn lòng ích kỷ, không phải lòng thương hữu hạn của phàm tình, do ân nghĩa, ái kiến phát sinh. Từ bi là hai ý nghĩa khác nhau: “Từ” luôn luôn giữ điều vui, “Bi” luôn luôn làm tan sự khổ. Vì vậy, “Tu “từ quán” dịu dàng bao nhiêu thì phương pháp “Bi quán” mạnh mẽ bấy nhiêu. Từ dịu dàng như những vần mây, bi mạnh bạo như sấm rền, sấm linh động mây mới tan, mới có mưa, mới đượm nhuần cỏ cây, mới tưới mát được cõi trần gian. Cũng vậy, người tu niệm cũng như mây, như sấm. Thực hành phương pháp Bi thiếu Từ không được, thực hành Từ thiếu Bi cũng không được” [1].

Phép quán từ bi thường thực tập theo hai cách: mở rộng tình thương tuần tự đi từ những người thân trong gia đình, cha mẹ, anh em, bạn bè, rồi đến hàng xóm láng giềng, đến những người không thân, cuối cùng đến kẻ thù và tập thế nào cho đến khi mình thấy kẻ thù cũng giống như người thân nhất của mình mới thôi. Hoặc trở ngược lại đi từ kẻ thù dần đến người thân nhất cho đến quán thấy không còn phân biệt giữa kẻ thù và người thân mới thôi. Tình thương ấy cũng không chỉ hạn cuộc trong phạm vi nhân loại mà còn lan đến muôn vật cỏ cây, nghĩa là toàn bộ những gì có sự sống.

Mặc dù người và muôn vật hình thức có khác nhau nhưng sự sống chỉ là một. Sự sống đã là một thì tình thương sao lại phải phân chia. Làm đau khổ một khía cạnh nào của sự sống, cũng là làm đau khổ sự sống chính mình. Vì sự sống của mình và chúng sanh là một. Như vậy, từ bi của Đạo Phật là một tình thương rộng rãi mênh mông, trang trải từ chúng sanh đến muôn vật; có tác dụng quý báu, thiết thực lợi ích cho cuộc đời, có ảnh hưởng tốt đẹp cho sự sống. Nó giúp con người trở nên hiền lành, rộng rãi, thông cảm với đồng loại, biết tôn trọng sự sống với tất cả và không vì lý do gì lại tàn sát đồng loại hay gây chiến tranh.

Khát vọng khẩn thiết của xã hội hôm nay là an lạc, là xóa bỏ khổ đau nên những trái tim của Bồ tát Quán Thế Âm hôm nay cần phải thị hiện. Đây chính là lúc vận dụng mọi hình thái phát triển tình thương. Một khi tình thương đã trở thành sông biển, một khi ý chí thể hiện tình thương đã trở thành gió bão thì mọi thành trì bạo lực sẽ dần dần sụp đổ. Cuộc đời của các vị Bồ tát đã khắc phục khổ đau bằng cách anh dũng đối đầu với nó. Đối với người đang đi trên đường tiến đến quả vị toàn giác, sự đau khổ không còn là sự lo buồn cá nhân và sự trăn trở về hạnh phúc của riêng mình, sự đau khổ của tất cả chúng sanh chính là sự đau khổ của mình. Chính trong tinh thần này mà tất cả những ai muốn đi theo con đường thánh thiện của Đức Phật đều phát lời thệ nguyện Bồ tát.

Trí tuệ quáncon đường giải thoát, là công phu thực tập lời dạy tỉnh thức của các bậc giác ngộ để tìm lại tiềm năng trí tuệ chân thật vốn ngủ say trong tâm. Trí tuệ thật chứng của chư Phật, chư Bồ tát là những soi sáng, là những đối tượng gợi cho sự tỉnh thứcquay về tìm lại giá trị chân tâm đích thực sẵn có của mỗi người. Trong quá trình quay về, chúng ta cần có hai khả năng kết hợp: khả năng tự lực và khả năng tha lực.

Khả năng tự lực là tin mình có đầy đủ trí tuệ và phải nỗ lực thiền định để phát huy trí tuệ ấy. Khả năng tha lựcthể tánh thanh tịnh của muôn pháp, Đức Bồ tát Quán Thế Âm sau khi thành tựu được trí tuệ, hội nhập với thể tánh thanh tịnh của muôn pháp và lòng từ bi cứu khổ chúng sanh của Ngài phát xuất từ thể tánh thanh tịnh ấy! Chính thể tánh thanh tịnh này là khả năng tha lực. Tin lòng từ bi vô biên và tin sự cứu độ bình đẳng của Đức Bồ tát Quán Thế Âm ta tin hai khả năng kết hợp giữa ta và Ngài, giữa sự tiếp xúc bên trong và bên ngoài. Tin tha lực, tin sự cơ cảm, của Bồ tát Quán Thế Âm cũng có nghĩa là ta phải nỗ lực quán chiếu, kiểm soát nội tâm để vun bồi và làm nảy nở hạt giống từ bi cho mỗi ngày thêm lớn. Vì vậy, khi chúng ta tin kính đảnh lễ cầu sự cứu rỗi của Bồ tát Quán Thế Âm là tin trong ta và ngoài ta có một khả năng trí tuệ tuyệt đối, có đủ năng lực mầu nhiệm làm tung vỡ cái ý thuyết sai lạc của ý thức phân biệt. Khi cái thấy sai lạc của ý thức phân biệt không còn nữa thì khổ đau không có nơi chốn để phụ thuộc vào. Thực chứng trí tuệ là đoạn trừ mê lầmdiệt trừ tất cả khổ não từ vô lượng kiếp! Vì vậy trong cuộc tranh chấp với bóng tối, chỉ có ánh sáng mới đóng vai trò quyết định. Muốn giải thoát con người khỏi bóng tối ngu si, nếu khôngtrí tuệ thì không một quyền năng nào có thể tiêu trừ nổi, giống như bấc và dầu giúp cây đèn phát sanh ánh sáng. Cũng vậy, muốn thắp cây đèn trí tuệ trong mỗi người, hẳn phải nhờ một số trợ duyên thích nghi, mà chính là phương pháp tu tập. Nhờ phương pháp tu tập đúng đắn sẽ thắp được cây đèn trí tuệ. Cây đèn trí tuệ khi đã thắp lên, tức những bóng tối vô minh không còn hiện hữu. Vì vậy, hành giả tu tập phải luôn trở về với Phật tâm của chính mình, đi vào thiền quán để thắp ngọn đèn trí tuệ trong tâm sáng mãi không bị lu mờ.

Như đã nói, pháp quán trí tuệ này là pháp quán của hàng Bồ tát, vì có trí tuệ rốt ráo, lòng từ bi mới chan hoà rộng lớn. Tức là có sự hiểu biết đúng đắn, sâu sắc mới có lòng thương yêu bình đẳnghành đạo lợi tha không mỏi mệt. Bằng trí tuệtâm từ bi đức, Bồ tát Quán Thế Âm thệ nguyện đi vào thế gian, vào mọi cảnh giới để cứu khổ chúng sanh không bao giờ cùng tận.

Nếu như kẻ phàm phu mãi sống trong tâm thức tối tăm, lấy dục lạc làm niềm vui, lấy tham ái làm linh hồn, ngược lại, các vị Bồ tát luôn soi sáng đời sống mình bằng trí tuệ vô ngã, bởi vì trí tuệ được xem là sự nghiệp, là linh hồn một vị Bồ tát. Bởi trí tuệ thâm sâu, Bồ tát diệt trừ bản ngã hẹp hòi của mình, hòa vào thực tại rộng lớn, từ đó thấy được mối liên hệ giữa mình và người, giữa một và tất cả. Cũng như trí tuệ ấy, Bồ tát hiểu rằng vạn pháphuyễn hoá, khổ đau cũng như muôn pháp khác đều không thực, trí tuệ luôn luôn gắn liền với đời sống của các vị Bồ tát, trong mọi lúc mọi nơi. Trí tuệ được xem là sự nghiệp là ánh minh quang luôn soi sáng mọi hành vi ý niệm. Khi đã an trú vào trí tuệ vô ngã, hàng Bồ tát thường quán chiếu về sự ảo hoá của vạn pháp theo nguyên lý tánh không và lúc đó mọi sự bám víu vào huyễn tướng của các pháp, mọi ý niệm cho rằng chúng ta thực có sẽ bị tan biến như mây khói. Ngay cả ý niệm về tánh cũng không hề nắm giữ.

Đức Bồ tát Quán Thế Âm trọn ngày ở trong trần lao độ sanhthật không có tướng trần lao. Tâm lợi sanh chẳng phải có mà có, có mà chẳng có. Như trăng dưới nước, hoa đốm giữa hư không, không chấp đắm không an trú vào đâu cả, tuy dấn thân vào đời ngũ trược mà vẫn thanh tịnh không nhơ bẩn. Như hoa sen vượt lên trên bùn. Giống như “Dạo vườn hoa trăm thứ, thân chẳng động một cành” [2].

Trong tất cả các đại nguyện, đại nguyện thanh tịnh là khó nhất, thế nhưng hạnh nguyện của Bồ tát Quán Thế Âm, khi tu là “Quán thanh tịnh không nhơ” khi chứng đắc thì hoà nhập vào cõi thế gian đầy uế trược để độ chúng sanh. Bồ tát Quán Thế Âm hoá hiện thân không phân biệt, khi chúng sanh cần hiện thân rắn để hoá độ, Ngài vẫn hoá hiện thân rắn, mà vẫn không hề ngại tanh hôi. Phàm là đệ tử Phật, phát nguyện thừa hành Bồ tát hạnh, thì sẵn sàng hoan hỷ đi vào các nơi đau khổ, các nơi dơ bẩn, khổ đau, nơi đó cần Từ, cần Bi, cần Trí, cần Tuệ nhất là cần pháp môn “Quán thanh tịnh không nhơ”. Thời kỳ hành giả quán nhập được “Thanh Tịnh” sắp đi vào các pháp vốn chân không thì chẳng dơ sạch, chẳng còn cấu tịnh, chẳng còn nhiễm hay bất nhiễm. Khi đã chứng đắc trình độ nhập vào pháp quán “Thanh Tịnh” và đã đắc ngộ đến trình độ không còn có giữa sự dơ và sạch khác nhau, lúc bấy giờ mới chuyển sang quán “Chơn”, tức là quán chơn không. Các pháp vốn từ chơn không hoà nhập vào các pháp, rồi từ các pháp quay hoàn trả lại chơn không.

Cái nhìn trí tuệ, hay cái nhìn Quán Thế Âm có thể giúp con người nhận ra thực chất của cuộc sống và mọi sự vật với kết quả là tư tưởng, cảm giácgiải thoát sinh khởi, hiện hữu ngay trong đời sống của họ. Vì mọi sự vật đang nói tiếng nói vô thường, khổ và vô ngã, nghĩa là chúng đang nói về ba đặc tính chân thật (tam pháp ấn) của tất cả pháp hữu vi. Do đó, nếu có thể lắng nghe những tiếng nói ấy như thật, chắc chắn chúng ta sẽ đi ra khỏi sự chấp thủ về một cái ngã sai lầm, không có các ý tưởng “về tôi”, “của tôi” và “tự ngã của tôi” trong tâm thức chúng ta. Như vậy khổ đau không có nơi để trú ẩn.

Vì vậy, muốn thành tựu mục tiêu của cuộc sống, thành tựu trí tuệhạnh phúc vĩnh hằng, không còn phương cách nào ngoài sự giác tỉnh của nội tâm, phải giác tỉnh ngay, giác tỉnh đối với ngũ uẩn mới gọi là sống, một lối sống chánh hạnh đối với vô tham, vô sân, vô si, giải quyết mọi chướng duyên trong hành trình đến bờ giải thoát. Cái nhìn đó chính là “tuệ quán” là sự quán xét bằng trí tuệ về ngũ uẩn, về vạn pháp duyên sinh vô ngã ngay chính hiện tại.

Tóm lại, thực tập hạnh lắng nghe và thấu hiểu theo hạnh nguyện của Bồ tát Quán Thế Âm để đi vào cuộc đời làm lợi ích cuộc đời. Muốn thấu hiểu thì phải lắng nghe và ngược lại. Quán Thế Âm là lắng nghe âm thanh của chúng sinh, nơi nào có tiếng kêu khổ đau thì Bồ tát thị hiện để cứu khổ. Cuộc đời còn lắm nỗi khổ đau nên rất cần đến sự lắng nghe và thấu hiểu. Đây cũng là nguyên tắc vàng áp dụng giữa cuộc đời nhằm kiến tạo niềm an lạc, hạnh phúc cho mọi người. Chúng ta hãy chịu khó lắng nghe, vì còn biết bao nhiêu nỗi khổ niềm đau cần ai đó lắng nghe để thấu hiểu. Vợ chồng lắng nghe nhau, anh lắng nghe em, thầy lắng nghe trò… để thấu hiểu nỗi niềm của họ, nhằm xoa dịu nỗi đau trong tâm họ. Có thể từ một cử chỉ nhẹ nhàng này mà làm thay đổi cuộc đời theo hướng tích cực hơn. Như Trịnh Công Sơn nói: “Sống trong đời sống cần có một tấm lòng”. Mọi người đừng nên vô tâm mà hãy thấu hiểu và yêu thương hiến tặng cho đời.

 

Chú thích:

* Đại đức Tiến sĩ Thích Trung Định, Ủy viên Ban văn hóa Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Phó Chánh Thư ký Phân ban Hoằng pháp Hải ngoại – Ban Hoằng Pháp Trung ương – Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

[1] Thích Thông Bửu, Kinh DPLH phẩm Phổ Môn Quán Thế Âm Bồ tát giảng luận, Nxb Thế giới, tr.147.
[2] Thích Trí Nghiêm dịch, Kinh DPLH phẩm Quán Thế Âm Bồ tát Phổ Môn giảng lục, tr.230.

 
(Văn Hóa Phật Giáo số 364)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 4134)
Đức Phật đã là một bậc Vô thượng chánh đẳng giác, nhưng Ngài cũng là một con người như bao nhiêu người khác nên không ...
(Xem: 4425)
Tôi đang trên đường từ hơn hai tháng nay và bây giờ sắp đến lúc quay về phương trời cũ.
(Xem: 3876)
Xây dựng niềm tinvấn đề căn bản của người đệ tử Phật. Người Phật tử khi đã xác quyết với Tứ bất hoại tín, ấy là tin Phật...
(Xem: 4400)
Nhìn lướt qua tin tức thế giới ngày nay có thể thấy rằng đường đứt gãy nơi Phật giáoHồi giáo giao thoa ở châu Á ngày càng...
(Xem: 3973)
"Thế giới là rỗng không. Nhận thức này tôi đã thâu lượm được trong khi nghiên cứu Phật giáo, hay nói chính xác hơn: từ các tham khảo những lời dạy của Đức Phật...
(Xem: 7286)
Trong cuộc sống hàng ngày, mọi người chúng ta chắc ai ai cũng từng nghe qua câu này:” Sống để bụng chết mang theo”.
(Xem: 4184)
Vào thời Đức Phật, không có cái gọi là Phật Giáo, vì đạo Phật chưa hình thành. Chỉ có giáo hội Tăng già tập hợp những người muốn tu tập
(Xem: 4313)
Hai cụm từ trên đưa ra làm “chủ đề” chúng ta liền nhận ra liền đó là so sánh giữa hay thái cực.
(Xem: 4134)
Chuyện bắt đầu từ việc môn đệ của Ni-kiền Tử tranh chấp, đấu đá, triệt hạ lẫn nhau sau khi bậc tôn sư của họ vừa qua đời.
(Xem: 4349)
Vào thời Đức Phật, không có cái gọi là Phật Giáo, vì đạo Phật chưa hình thành. Chỉ có giáo hội Tăng già tập hợp những người muốn tu tập theo...
(Xem: 4167)
Khi tùy hỷ lòng ta đầy thanh thản Phước Đức sanh tạo thiện cảm với người Khi đố kỵ nét mặt hết vui tươi Tạo oan trái cuộc đời đầy đau khổ.
(Xem: 3365)
Nhan đề bài viết -- Lắng Nghe Bờ Bên Kia -- là một cách viết thơ mộng, dựa theo Kinh Lăng Nghiêm, và cũng mượn ẩn dụ Đức Phật thường nói, rằng hãy nương vào bè pháp để vượt qua dòng sông sinh tử.
(Xem: 4396)
trích dẫn giáo lý của Đức Phật cùng các danh nhân khác thường thấy trên mạng, báo chí và tạp chí đủ loại tại các nước Tây phương.
(Xem: 4794)
Từ ái là ngọn đuốc sáng rực, không bao giờ tắt; đã có thể chiếu sáng, lại có thể tỏa nhiệt. Khi con người cho đi từ ái, nhân gian sẽ thêm sáng sủa, xã hội sẽ thêm ấm nồng.
(Xem: 2924)
Nước. Nước từ đâu cứ dâng lên; lên rồi rút, rút rồi lại lên, ngập tràn đồng ruộng, ao hồ, vườn tược, làng quê, và phố thị của nhiều tỉnh thành miền Trung.
(Xem: 3831)
Thekchen Chöling, Dharamsala, HP, Ấn Độ - Sáng nay, Thánh Đức Đạt Lai Lạt Ma đã được mời tham gia dự án Thế Giới Mới
(Xem: 3452)
Khổ là chứng bệnh lớn lao. Vô thường ngũ uẩn khổ đau nhất đời. Nếu ai hiểu đúng vậy rồi. Coi như đạt đến cực vui Niết Bàn.
(Xem: 3877)
Nếu hoa không đẹp thì đời đã không quan tâm tới, và hoa cũng không còn tồn tại.
(Xem: 4922)
Theo Phật-luật, hàng năm, giới xuất gia, tùy hoàn cảnh và môi trường, phải câu hội về một nơi để cùng thúc liễm thân tâm, trau giồi giới đức.
(Xem: 4555)
Nhà văn nổi tiếng nhất trong nền văn học viết bằng tiếng Trung Quốc để kêu gọi bảo vệ nền văn hóa Tây Tạng có lẽ là Tsering Woeser.
(Xem: 4365)
Khi nghe Đạo Phật nói “đời là bể khổ”, nhiều người đã hiểu lầm rằng Đức Phậtquan niệm bi quan.
(Xem: 4688)
Tuổi trời thấm thoắt đã vào Thu Rừng lá vàng rơi dệt mộng mơ Dĩ vãng đã qua nào tiếc nuối Tương lai chưa tới há mong chờ
(Xem: 5504)
Tứ là bốn, nhiếp là thu phục, pháp là phương pháp. “Tứ Nhiếp Pháp” là bốn phương pháp lợi tha, đã được Đức Phật Thích Ca dạy ...
(Xem: 4380)
Nghĩ về sự yên lặng, chúng ta thường nghĩ đến sự cô đơn, đôi khi là sự thất thế, hoặc là những lúc tâm trạng rất không tốt.
(Xem: 4205)
Nền tảng thực tập giáo lý đạo Bụt không dựa trên niềm tin về luân hồi, về nghiệp và quả báo.
(Xem: 3406)
Ngôi chùa tọa lạc lưng chừng ngọn núi, sau rừng sồi, cũng tương tự như bao ngôi chùa nhỏ, xa nơi đô thị
(Xem: 2788)
Bài này sẽ phân tich một số khái niệm nhà Phật về Niết Bàn, nhưng không có ý đi sâu vào các tranh luận bộ phái, đối chiếu ưu tiên chỉ để tìm các phương tiện khả dụng thích nghi cho Thiền tập.
(Xem: 3683)
Hôm nay trời nhẹ lên cao. Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn.
(Xem: 5495)
Trước khi qua đời, một Thiền Sư dạy chúng đệ tử rằng: “Con à, có những điều thầy mong con ghi nhớ:
(Xem: 4113)
Cơm tù kính cẩn tay nâng, Cúng dường bậc Tối Thắng Tôn Giác Toàn, Thế gian máu hận ngập tràn, Bát dâng, mà lệ hàng hàng tuôn rơi ! …
(Xem: 4395)
Thân tứ đại là đất, nước, lửa, gió, khi đã trút hơi thở cuối cùng thì cũng trở về với tứ đại, chẳng còn gì để suy viễn ở tương lai.
(Xem: 3895)
Như chúng ta thấy, sự tức giận là sức mạnh tinh thần bất thiện dẫn con người vào những hoàn cảnh khó chịu và đau khổ khác nhau.
(Xem: 4910)
Đạo Phật vốn là tôn giáo vô ngã, phá chấp, không có tín điều, và tuyệt đối tôn trọng sự thực;
(Xem: 4683)
Sự khác biệt giữa "Trời" và "Thượng đế" dường như là một điều thắc mắc trong tâm trí của nhiều người.
(Xem: 4457)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 3424)
Lửa. Lửa lại bùng cháy trên những cánh rừng bạt ngàn miền tây. Khói cuồn cuộn, lan xa hàng nghìn dặm, kéo qua tận miền đông.
(Xem: 4376)
Một trong những đặc trưng khu biệt của văn học Phật giáo với những dòng văn học khác chính là ở cách sử dụng ngôn ngữ nghệ thuật.
(Xem: 4850)
Con đường xưa…! và con đường nay bây giờ có khác gì không nhỉ? Có những lúc mình đi trên con đường sỏi đá chông gai
(Xem: 4505)
Khi loài người chúng ta bắt đầu giải quyết mọi vấn đề, chúng ta không quan tâm theo một phương cách cẩn thận chu đáo
(Xem: 4317)
Theo truyền thống Phật giáo Nguyên Thủy y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, bắt đầu Vũ Kỳ An Cư (Vassavāsa) từ ngày 16
(Xem: 5336)
Có lần một vị Bà La Môn hỏi Đức Phật, Thưa Ngài! Biết có kiếp sau hay không mà Ngài khuyên răn chúng tôi làm thiện.
(Xem: 4812)
Kẻ cai ngục, dù nơi nhà tù lớn hay nhỏ, xa hay gần, kẻ đó cũng không thể thoát khỏi chu kỳ sinh, lão, bệnh, tử được.
(Xem: 5501)
Nay kính cẩn ghi những lời này, xin gửi đến quý Phật tử nào may mắn Cha, Mẹ còn mạnh khỏe thì đó là phước lớn không gì sánh được trên cõi đời này.
(Xem: 4557)
Lịch sử thật là muôn hình vạn trạng, các Sử gia lại càng biến hóa khôn lường.
(Xem: 4965)
Thế Tôn từng dạy, những ai đến với giáo pháp của Ngài là để thấy chứ không phải để tin. Chính quan điểm đúng đắn, sự thấy biết chính xác sẽ dẫn đường cho tư duy và hành động đúng đắn, hướng đến Chân Thiện Mỹ...
(Xem: 4443)
Cuộc đời con người chỉ mấy mươi năm thôi mà có biết bao nhiêu chuyện xảy ra.
(Xem: 4645)
Sự vô thường, tuổi già và bệnh tật không bao giờ hứa hẹn với bất cứ ai. Bất cứ khi nào chúng đến, chúng sẽ đến mà không một lời báo trước.
(Xem: 5099)
Trên đời này có rất nhiều người thường hay nhắc đến hai chữ “họa và phước” khẳng định là chúng ta ai ai cũng đều hiểu cả.
(Xem: 4305)
Có bốn pháp vật thực là đoàn thực, xúc thực, tư niệm thựcthức thực. Nhờ bốn thực ấy làm duyên, trợ sanh và nuôi dưỡng cho nên ...
(Xem: 4893)
Theo lăng kính Phật giáo, bệnh được tồn tại dưới 3 hình thức, đó là thân bệnh, tâm bệnh và nghiệp bệnh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant