Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tâm Là Như Lai Tạng Thiền Sư Thường Chiếu

05 Tháng Tám 202120:21(Xem: 3206)
Tâm Là Như Lai Tạng Thiền Sư Thường Chiếu

Tâm Là Như Lai Tạng Thiền Sư Thường Chiếu

Nguyễn Thế Đăng

 hoa-sen


Thiền Uyển Tập Anh chép:

Thiền sư Thường Chiếu (?-1203), thế hệ Thứ Mười Hai, thiền phái Vô Ngôn Thông.

Chùa Lục Tổ, làng Dịch Bảng, phủ Thiên Đức. Người làng Phù Ninh, họ Phạm. Triều Lý Cao Tông, Sư làm quan chức Lệnh đô tào ở cung Quảng Từ. Sau từ quan, cầu pháp xuất thế với Sư Quảng Nghiêm chùa Tịnh Quả, đích thân được pháp chỉ. Sư hầu thầy nhiều năm, rồi đến ngôi chùa cổ ở phường Ông Mạc tuyên thuyết hoằng dương giáo chỉ. Sau đó rời sang chùa Lục Tổ. Môn đồ ngày càng đông”.

Như vậy, Sư đã làm quan rồi mới xuất gia học đạo, và đích thân được pháp chỉ. Pháp chỉyếu chỉ của pháp. Yếu chỉ của pháp là bản tâm, như đoạn sau nói, “Rõ tâm tu đạo…”. Đó cũng là tâm ấn.

Sau đó ngài ở thêm với thầy nhiều năm để tiệm tu, cho thật thuần thục.

Có vị tăng hỏi:

- Khi vật và ta duyên níu nhau thì thế nào?

Sư đáp:

Vật ta đều mất

Tính tâm vô thường

Dễ sanh dễ diệt

Khoảnh khắc chẳng dừng

Cái gì níu nhau?

Sanh là vật sanh

Diệt là vật diệt

Đắc được pháp kia

Thường không sanh diệt.

Vị tăng thưa:

- Người học chưa hiểu, xin thầy chỉ dạy lại.

Sư bảo:

- Rõ tâm mà tu đạo thì ít sức mà dễ thành. Không rõ tâm mà tu đạo thì phí công vô ích”.

 

Vấn đề của con người là phải sống trong vô thường sanh diệt, từ đó mà có khổ đau không dứt. Vô thường sanh diệt này là do tâm và vật duyên níu nhau, và tâm cứ chạy theo sự duyên níu theo vật thế nên cứ trôi lăn suốt đời.

Để chấm dứt sự duyên níu, chạy đuổi theo vật vô thường mà trôi lăn, Thiền sư Thường Chiếu dạy phải nhìn ra bản chất của tâm và vật là gì.

Tâm thì “vô thường, dễ sanh dễ diệt, khoảnh khắc chẳng dừng”: tâm thì không có tự tánh, vô tự tánh, là tánh Không. Vật thì có sanh có diệt, “sanh là vật sanh, diệt là vật diệt”, vật cũng sanh diệt, nghĩa là vô tự tánh, tức là tánh Không.

Bằng thiền định (Chỉ) thiền quán (Quán), hai pháp tu tâm chính của Phật giáo, người học nhìn sâu vào tính chất của tâm và vật, rồi đến lúc thấy trực tiếp tâm và vật không có tính chất cố định, không có tự tánh, vô tự tánh, là tánh Không.

Tâm và vật đều không có tự tánh, đều là tánh Không nên sự duyên níu, nương dựa lẫn nhau là một ảo tưởng. Bám nắm, đuổi theo vật hay tâm lại càng thêm ảo tưởng nữa.

Khi ấy, “vật, ta đều mất”, và thực tại (“pháp kia”) lộ bày rõ ràng ngay trước mắt, “đắc được pháp kia, thường không sanh diệt”. Pháp kia hay thực tại, hay tâm ấn thì thường không sanh diệt, bởi vì không có sự duyên níu sanh diệt.

 

Nhưng ở đây vị tăng vì công phu thiền định thiền quán chưa đủ, những che chướng của vô minh phiền não còn nặng nề, nên chưa thấy, chưa hiểu, bèn xin thầy chỉ dạy lại. Sư bảo, cốt yếu là phải “rõ tâm”, bởi vì “tất cả duy tâm tạo”.

Rõ tâm là rõ bản tánh của tâm. Bản tánh của tâm là tánh Không, là vô sanh. Bản tánh của tâm vốn vô sanh nên vốn là giải thoát.

 

Hỏi: - Pháp thân khắp tất cả chỗ là thế nào?

Sư đáp:

- Như một lỗ chân lông trùm khắp tất cả pháp giới, tất cả lỗ chân lông thảy đều như thế. Nên biết trong Tâm Không thì không có chút khoảng nào mà không có thân Phật”.

 

Đây là cái thấy của một vị chứng ngộ, hơn nữa, đó là cái thấy cao nhất, cái thấy pháp giới sự sự vô ngại được nói trong Kinh Hoa Nghiêm. Một lỗ chân lông “tương dung tương nhiếp” toàn bộ vũ trụ, và toàn bộ vũ trụ “tương tức tương nhập” vào một lỗ chân lông. “Tất cả lỗ chân lông thảy đều như thế”.

“Nên biết trong Tâm Không thì không có chút khoảng nào mà không có Phật”. Đây là Pháp giới Chân Không - Diệu Hữu. Vũ trụ của những sự vật và chúng sanh không còn nữa mà chuyển hóa thành pháp giới “tất cả là Phật”, ở cấp độ vĩ mô, các thiên hà, và ở cấp độ vi mô, các nguyên tử, các vi trần.

Qua câu này Thiền sư cho chúng ta biết Tâm Không, Phật, và pháp giới là Một.

 

Vì sao thế? Vì Pháp thân ứng hóa thành Đẳng Chánh Giác, không chỗ nào không đến, nên ứng ra trí huệ như vậy. Như Lai dùng lực của tâm tự tại, không có khởi, không có chuyển mà chuyển pháp luân, vì biết tất cả pháp thường không khởi. Dùng ba thứ pháp nói đoạn mà thật không đoạn mà chuyển pháp luân, vì biết tất cả pháp lìa biên kiến. Lìa cõi dục nhưng chẳng phải trừ cõi dục mà chuyển pháp luân, vì vào cõi giới hư không của tất cả các pháp. Không có ngôn thuyếtchuyển pháp luân, vì biết tất cả pháp đều không thể nói. Rốt ráo tịch diệtchuyển pháp luân, vì biết tất cả pháp là tánh Niết bàn.

Ấy là tánh vô tướng, tánh vô tận, tánh vô sanh vô diệt. Hoàn toàn vô tánh: không có tánh ngã, không có tánh phi ngã, không có tánh chúng sanh, không có tánh phi chúng sanh, không có tánh Bồ tát, không có tánh pháp giới, không có tánh hư không, cũng không có tánh thành Đẳng chánh giác”.

 

Như Lai chính là Pháp thân, là toàn thể pháp giới, “không có chút khoảng nào mà không có thân Phật, không chỗ nào không đến”. Như Lai hay Pháp thân thì “không có khởi, không có chuyển” nên sự thành Phật, thành Đẳng chánh giác là sự “ứng hóa”, là Ứng hóa thân. Ứng hóa thân này là sự lưu xuất, sự thị hiện từ Pháp thân, “nên ứng ra trí huệ như vậy”. Và bởi vì Pháp thân ở khắp cả, nên Ứng hóa thân cũng khắp cả.

Chính từ nền tảng Pháp thân không khởi, không chuyển mà chuyển pháp luân nên sự chuyển pháp luân cũng là ứng hóa thị hiện. Pháp thân hay Như Lai, hay Như Lai tạngbản tánh của tất cả các pháp, trong bản tánh ấy, “tất cả các pháp thường không khởi”. 

Pháp thân Như Lai tạng này là tánh Không: “không khởi, không đoạn, vào cõi giới hư không (tánh Không) của tất cả các pháp”. Pháp thân Như Lai tạng này là tánh Không, là bản tánh của tất cả các pháp.

“Lìa biên kiến, lìa cõi dục, không có ngôn thuyết, rốt ráo tịch diệt” là tánh Không. Nhưng tánh Không không ngăn ngại các pháp, vẫn để cho các pháp biểu hiện: vẫn có sự “chuyển pháp luân”, “chẳng phải trừ cõi dục”. Vẫn có “ngôn thuyết để chuyển pháp luân”, vẫn để cho lời nói biểu hiện, thị hiện, mặc dù trong bản tánh, trong Pháp thân thì “không có ngôn thuyết, tất cả các pháp đều không thể nói”.

“Tất cả pháp là tánh Niết bàn, rốt ráo dịch diệt”: bản tánh nền tảng của tất cả các pháp là tánh Không, là Niết bàn, rốt ráo tịch diệt, nhưng bản tánh Không ấy, nền tảng tánh Không ấy không chướng ngại các pháp, cho nên cả đoạn vẫn nói về sự biểu hiện của “tất cả các pháp, thành Đẳng chánh giác, chuyển pháp luân, thuyết pháp”.

Nói theo sắc và Không của Bát Nhã Tâm Kinh thì “sắc tức là Không, Không tức là sắc”: Tánh Không không ngăn ngại sắc, vẫn để cho sắc biểu lộ bởi vì “sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác sắc”.

Như thế, Pháp thân tánh Không là “tánh vô tướng, tánh vô tận, tánh vô sanh vô diệt, hoàn toàn vô tánh”, nhưng Pháp thân tánh Không ấy không ngăn ngại các tướng, không ngăn ngại cái có tận, cái có sanh có diệt, tức là không ngăn ngại Ứng hóa thân “không chỗ nào không đến”. Chân Không không ngăn ngại Diệu Hữu. Diệu Hữu là sự biểu hiện của Chân Không, là sự thị hiện của tánh Không.

Như thế, “tất cả các pháp, bản tánh của chúng là Niết bàn”, nên chính chúng là Niết bàn.

 

Rồi nói bài kệ:

Ở đời làm thân người

Tâm là Như Lai tạng

Chiếu sáng khắp muôn phương

Tìm nó không bóng dáng”.

 

Pháp thân ấy là tâm của vị đã chứng ngộ, “Tâm là Như Lai tạng”. Pháp thân, hay Như Lai tạng, hay bản tánh của tâm, hay Pháp giới không chỉ là tánh Không, mà còn là “tánh sáng” (chữ của Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông). Tánh Không là tánh Sáng không thể tách lìa.

Tánh Không là, “Tìm nó không bóng dáng”; tánh Sáng là, “Chiếu sáng khắp muôn phương”. Cả hai chưa từng tách lìa nhau.

 

Đến ngày 24 tháng 9 năm Thiên Gia Bảo Hựu thứ 2 (1203), Sư nói đau nơi tim, nhóm chúng nói kệ rằng:

Đạo vốn không nhan sắc

Mỗi ngày tươi mới khoe

Ngoài đại thiên sa giới

Nơi đâu chẳng phải nhà

Nói kệ xong, Sư ngồi kiết già mà ra đi. Đệ tử Thần Nghi làm lễ trà tỳ, thu xá lợi, dựng tháp phụng thờ.

Sư đã soạn Nam tông tự pháp đồ, một quyển, lưu hành ở đời”.

 

“Đạo vốn không nhan sắc”: Pháp thân thì ở khắp mọi chỗ “không có chút nào mà không có thân Phật”, nhưng không có hình tướng, không khởi không đoạn, không sanh không diệt.

“Mỗi ngày tươi mới khoe”: Nhưng sự biểu lộ của Pháp thânBáo thân tánh Sáng và Hóa thân pháp giới thì luôn luôn tươi mới, hiện tiền trước mắt.

“Ngoài đại thiên sa giới, nơi đâu chẳng phải nhà”: Trong toàn bộ vũ trụ, nơi đâu cũng là Pháp thân tánh Không, là Báo thân tánh Sáng, nơi đâu cũng là Ứng hóa thân thị hiện, “mỗi ngày tươi mới khoe”.

Vũ trụ này, từ nhỏ nhất như lỗ chân lông, cho đến lớn như đại thiên sa giới, đều là Pháp thân, Báo thânHóa thân, cả ba không hề tách lìa nhau, cho nên “Nơi nào chẳng phải nhà”.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 595)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 782)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1104)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1268)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 997)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1342)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 792)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 765)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 808)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 823)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 803)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 791)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 948)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 835)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 988)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 1007)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 932)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 932)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 858)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1015)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 956)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 897)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 995)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 910)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 851)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 959)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 885)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1145)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 916)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1018)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1157)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1617)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1166)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1261)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1113)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 978)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 921)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 960)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 806)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1486)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1366)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1330)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1274)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1381)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1334)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1478)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1355)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1208)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1267)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1326)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant