Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Pháp Xuất Gia Trong Luật Tạng Pali Và Luật Tứ Phần

16 Tháng Mười Hai 202120:01(Xem: 2893)
Pháp Xuất Gia Trong Luật Tạng Pali Và Luật Tứ Phần
Pháp Xuất Gia Trong Luật Tạng Pali Và Luật Tứ Phần 

Thích Nữ Liên Liên

loi-phat-day-2


Khi Đức Phật còn hiện hữu cõi Ta-bà, chúng đệ tử xuất gia sống thanh tịnh, hòa hợp thành một thể thống nhất, cùng nhau sinh hoạt, cùng nhau tu học trong môi trường phạm hạnh; tất cả đều tự giác tuân thủ hành trì theo giáo pháp và những nội quy do Ngài đề ra. Tuy nhiên, sau khi Đức Phật nhập Niết-bàn, hội chúng Tăng đoàn bắt đầu có sự mâu thuẫn, chống đối, bất hòa với nhau. Qua thời gian, trong hệ thống Tăng đoàn bắt đầu có sự phân chia giáo phái. Các giáo phái đều tuân thủ theo những gì Đức Phật đã định nhưng cũng tồn tại một số dị biệt giữa họ do lập trường tư tưởng, quan điểm khác nhau. Trong số các bộ phái ấy có Theravāda và Dharmaguptaka. Hai bộ phái này có hai bộ luật riêng. Theravāda có bộ luật Pāli còn Dharmaguptaka có bộ luật Tứ phần. Ở bài viết này, người viết dựa vào vào hai bộ luật vừa nêu để so sánh phương thức xuất gia giữa hai bộ luật của hai truyền thống Phật giáo, xem xét những điểm tương đồng và dị biệt được nêu ra trong đó.

Điểm tương đồng

- Đối với bậc Vô lậu

Thời Đức Phật còn tại thế có nhiều vị Thánh tăng xuất hiện. Và đối với những bậc thiện căn thiện trí, chỉ qua một vài lần nghe pháp được Đức Thế Tôn thuyết giảng, họ có thể giác ngộ, chứng đắc Thánh quả. Với những bậc này, Đức Thế Tôn chỉ đơn giản nói lời xác nhận sự xuất gia của họ. Điểm này có sự tương đồng giữa luật Tứ phần và Luật tạng Pāli.

Với Luật tạng Pāli, câu nói xác quyết “Này các Tỷ-kheo, hãy đến. Pháp đã khéo được thuyết giảng, hãy thực hành Phạm hạnh một cách đúng đắn để chấm dứt khổ đau”1 có mặt khắp trong bộ luật. Trong Tứ phần luật, Đức Phật dạy: “Hãy đến đây, Tỷ-kheo! Hãy ở trong pháp của Ta, tự chứng nghiệm, tu Phạm hạnh, để đoạn tận nguồn khổ”.2Khi Đức Phật cất lên lời này, vị thiện nam dứt sạch các trần cấu, đắc pháp nhãn tịnh, thấy pháp, đắc pháp, thành tựu các pháp, tự thân đạt được quả chứng, phát tâm xuất gia, muốn tu Phạm hạnh trong giáo pháp của Đức Như Lai. Ngoài ra, câu nói ấy còn là sự xác quyết vị Tỷ-kheo kia đã được thọ giới Cụ túc. Ở đây chúng ta thấy rằng, quá trình xuất gia tu họcthọ giới Cụ túc (tu lên bậc trên - theo cách diễn đạt của Luật tạng Pāli) của các vị này hầu như diễn ra trong cùng một lúc. Trước đó còn đang là một vị thiện nam nhưng sau khi nghe lời thuyết giảng từ Đức Phật, tức thì giác ngộtrở thành một Tỷ-kheo như pháp, đắc Thánh quả sau khi Đức Thế Tôn xác quyết bằng câu nói trên.

Nói cách khác, vào thời Đức Phật tại thế, khi Ngài xác quyết, khuyến tấn một vị xuất gia (như trên đã trình bày) là đồng nghĩa vị ấy đã liễu sinh thoát tử, chứng đắc Thánh quả. Thọ giới Cụ túc chính là vị ấy đã là Thánh tăng. Đây là điểm khác biệt rõ ràng giữa xuất gia - thọ giới của các bậc Vô họcphàm phu Tăng.

- Độ phàm tăng xuất gia

Sau khi Tăng bảo hình thành kể từ lúc Tăng đoàn được thành lập, lúc ấy nhiều người ở nhiều xứ sở khác nhau muốn xuất gia đã theo các Tỷ-kheo đến xin Đức Thế Tôn cho phép được xuất gia. Như thế, dù ở bất cứ địa phương nào, nếu muốn xuất gia thì những vị này phải đến nơi Đức Phật đang cư trú. Đức Phật nhận thấy “Trong trường hợp ấy, chính các vị Tỷ-kheo, luôn cả những người có ý muốn xuất gia đều mệt nhọc”3 nên Ngài cho phép từ đó về sau, các Tỷ-kheo ở mọi trú xứ, mọi địa phương, khi có người khởi tâm muốn xuất gia thì chính các vị Tỷ-kheo ấy được phép làm lễ xuất gia cho họ. Pháp xuất gia được Đức Phật dạy như sau:

Trước tiên, nên cho cạo bỏ râu tóc, cho choàng lên các tấm vải màu hoại sắc, cho đắp thượng y một bên vai, bảo đảnh lễ ở chân các vị Tỷ-kheo, bảo ngồi chồm hổm, bảo chắp tay lên, và nên bảo rằng: “Ngươi hãy nói như vầy: Tôi đi đến Đức Phật là nơi nương nhờ (Tôi xin quy y Phật). Tôi đi đến giáo pháp là nơi nương nhờ (Tôi xin quy y Pháp). Tôi đi đến với hội chúng là nơi nương nhờ (Tôi xin quy y Tăng).” (Lần thứ hai và thứ ba đều đọc như vậy).4

Và theo Tứ phần luật, Đức Phật đã dạy người phát tâm xuất gia phải như sau: “…Như pháp sau đây: Cho cạo tóc, dạy mặc ca-sa, để trống vai bên hữu, cởi bỏ dép, đầu gối bên hữu chấm đất, chắp tay thưa: ‘Con là… quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng Tỷ-kheo. Con ở trong pháp của Như Lai xuất gia học đạo. Đức Như Lai là bậc Chí chân, Đẳng Chánh giác của con!’”.5 (Lần thứ hai và thứ ba đều đọc như vậy).

Như vậy ở điểm này, về cơ bản cả Tứ phần luật lẫn Luật tạng Pāli đều tương đồng nhau. Hay nói cách khác, ở cả hai bộ luật này, một người muốn xuất gia trước hết phải cạo sạch râu tóc, mặc áo ca-sa, đến trước đại chúng ba lần đọc lời phát nguyện nương tựa vào ba ngôi báu. Đó là pháp xuất gia cơ bản.

Bên cạnh đó, khi Đức Thế Tôn ngự tại thành Kapilavatthu, ở tu viện Nigrodha, vào buổi sáng, Ngài đã mặc y, cầm bát vào cung điện của vua Tịnh Phạn (Suddhodana). Mẹ của Rāhula bảo con mình đến xin phần thừa kế từ Đức Thế Tôn và Rāhula đã làm theo lời mẹ mình chỉ dạy. Khi ấy Đức Phật đã dạy Tôn giả Xá-lợi-phất (Sāriputta) làm pháp xuất gia cho hoàng tử Rāhula. Và cũng từ việc độ Rāhula xuất gia, Đức Phật quy định người muốn xuất gia phải có sự đồng ý của cha mẹ, nếu khôngcha mẹ thì phải có sự đồng thuận từ người bảo hộ. Đây cũng là điểm giống nhau thứ hai giữa cả hai truyền thống luật.

Ngoài ra Đức Phật còn quy định rằng người bị khuyết tật, thiếu căn, hay kẻ tội đồ bị truy nã… đều không được xuất gia, nhằm tránh việc người không có tín tâm sinh lòng bất kính đối với Tam bảo. Đây là điểm tương đồng thứ ba giữa hai hệ thống luật về việc xuất gia. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn tồn tại vài điều dị biệt giữa hai bộ phái này.

Điểm dị biệt

Chúng ta có thể tóm tắt các điểm dị biệt của hai truyền thống luật ở bảng sau:

Nhận xétTứ phần luật có phần khai thoáng hơn, có thể cho phép người khác xuất gia dù không đủ Tăng, chỉ cần đến từng phòng rồi thưa cho các vị ấy biết có người xuất gia là được. Trong khi với Luật tạng Pāli, muốn độ người xuất gia thì nhất thiết phải tác pháp giữa đại chúng rồi mới được làm lễ xuất gia.

Như vậy, pháp xuất gia được Đức Phật chỉ dạy rất đơn giản. Điều tiên quyết nhất vẫn là phải phát tâm quy y, xin trở về nương tựa vào Đức Phật, giáo phápTăng chúng (Phật - Pháp - Tăng). Người khởi tâm muốn vào cửa đạo, sống đời cắt ái ly gia thoát tục phải có niềm tin sâu sắc và tôn kính đối với Tam bảo; cơ thể lành lặn, đầy đủ các căn; không phải là người mang tội bị lệnh truy nã, và quan trọng phải có sự chấp thuận của cha mẹ hoặc người bảo hộ, được như vậy mới độ cho họ thế phát xuất gia tu họcthọ giới lên bậc trên.

Tựu trung lại, xuất gia dù ở thời đại nào, không gianthời gian nào đều là việc làm từ chính sự phát tâm với tâm nguyện hoài bão muốn trở về tu học trong giáo lý của Phật-đà, bước đầu đặt chân trên đạo lộ tiến về giác ngộ, giải thoát. Người phát tâm xuất gia là đã xác định hướng đi cho chính mình ở hiện tại và tương lai gần, chấp nhận mọi thử thách trên bước đường mình đã chọn. Từ đó, tâm thái và oai nghi được hình thành, nương tu tập thọ trì giới pháp mà trở nên oai nghi, giới đức tỏa sáng, cảm hóa người cùng huân tu.

Thích Nữ Liên Liên/ Nguyệt san Giác Ngộ

_________________________________

(1) Xem Đại phẩm, tập 1, chương Trọng yếu, Indacanda dịch, NXB.Tôn Giáo, 2017.

(2) Xem Luật Tứ phần, tập 3, chương Thọ giới, HT.Thích Đỗng Minh dịch, NXB.Phương Đông, 2013.

(3) Đại phẩm, tập 1, Indacanda dịch, NXB.Tôn Giáo, 2017, tr.37.

(4) Sđd., tr.38, 39, 160, 161.

(5) Luật Tứ phần, tập 3, HT.Thích Đỗng Minh dịch, NXB.Phương Đông, 2013, tr.1223.

(6) Xem Đại phẩm, tập 1, Indacanda dịch, NXB.Tôn Giáo, 2017, tr.176-178.

(7) Xem Luật Tứ phần, tập 3, Thích Đỗng Minh dịch, NXB.Phương Đông, 2013, tr.1213-1220.

(8) Đại phẩm, tập 1, Indacanda dịch, NXB.Tôn Giáo, 2017, tr.153.

(9) Sđd., tr.1228.

(10) Luật Tứ phần, tập 3, HT.Thích Đỗng Minh dịch, NXB.Phương Đông, 2013, tr.1225.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 3488)
Theo Tứ phần luật thì nguyên nhân Phật chế định sự an cư là do nhóm sáu người gọi là lục quần Tỳ kheo thường du hành trong nhân gian,
(Xem: 4448)
Người Á Châu không ai là không biết đến hoa Sen. Vì Á Châu chúng ta có khí hậu ấm áp, nhất là những xứ như Ấn Độ, Thái Lan, Miến Điện, Tích Lan, Lào, Cam Bốt, Việt Nam, Trung Quốc và ngay cả Đại Hàn hay Nhật Bản, hoa Sen vẫn thường nở khoe sắc thắm vào mùa Hè nắng ấm.
(Xem: 3478)
Cơn mưa phùn đêm qua còn đọng nước trên đường. Gió thu đã về. Lá vàng theo gió lác đác vài chiếc cuốn vào tận thềm hiên.
(Xem: 4473)
Ấn Độ có nhân vật huyền thoại là Duy-ma-cật; Trung Quốccư sĩ Bàng Uẩn; Việt Nam có Thượng Sỹ Tuệ Trung.
(Xem: 3408)
Theo truyền thống Phật giáo Nguyên Thủy y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, bắt đầu Vũ Kỳ An Cư (Vassavāsa) từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina).
(Xem: 4595)
Mong rằng quý vị có thể tìm được những thông tin hữu ích để giúp mình có chọn lựa tốt trong việc ăn uốngcách sống để duy trì hoặc cải thiện sức khỏe của mình.
(Xem: 3568)
Trước tiên muốn hiểu về vấn đề này, chúng ta phải biết rõ, tin sâu và chấp nhận thuyết “nhân quả, luân hồi” !
(Xem: 3386)
Cơn dịch Coronavirus vẫn tiếp tục hoành hành khắp nơi, đã gần hai năm rồi nhưng chưa thấy có dấu hiệu nó suy yếuchấm dứt, thậm chí ngược lại, nó còn sinh sản ra những chủng mới nguy hiểm hơn.
(Xem: 3873)
Sách dày 572 trang kể cả phần tiếng Anh. Riêng phần tiếng Việt bắt đầu từ trang 1 đến trang 272 và phần tiếng Anh bắt đầu từ trang 277 đến cuối sách. Sách do Phật Việt Tùng Thư tại Hoa Kỳ xuất bản lần thứ nhất năm 2021
(Xem: 3174)
Đọc tiểu sử của Hòa Thượng Tuệ Sỹ để chúng ta biết rằng Ngài là một bậc Vô Sư Trí, tự tu học, nhưng biết rất nhiều sinh ngữ như: Anh, Pháp, Đức và các cổ ngữ như: tiếng Phạn, Pali, Tây Tạng v.v…
(Xem: 3526)
Giới luật Phật giáo không dành riêng cho đối tượng nào nhưng hàng xuất gia là đối tượng bắt buộc phải học giới luật Phật giáo.
(Xem: 3510)
Trong suốt những năm tháng hoằng pháp độ sanh Đức Phật luôn chú trọng đến mục đích chính là giải thoát con người ra khỏi ...
(Xem: 3470)
Với tâm kiêu ngạo, tự cao tự đại mà nói nhiều lại càng nguy hiểm hơn. Điều mà vị Tỳ-kheo vô sự cần thể hiện là bớt nói lại và nghe nhiều lên.
(Xem: 3636)
Đức Phật dạy “Nhất thiết duy tâm tạo” hay “Tâm dẫn đầu các pháp”, tâm ý quyết định kết quả của hành vi con người.
(Xem: 3317)
“Thiền sư Thường Chiếu (?-1203), thế hệ Thứ Mười Hai, thiền phái Vô Ngôn Thông.
(Xem: 4188)
Vì muốn tạo sự thanh thản cho chư Tôn Đức Tăng Ni và quý Phật Tử Học Viên trong thời điểm căng thẳng của Covid-19, cho nên Giáo Hội quyết định chọn 3 ngày cuối của 2 tuần lễ và 3 ngày cuối tuần lễ thứ nhất là ngày 9, 10, 11/07/2021...
(Xem: 3768)
Bắt phong trần phải phong trần. Cho thanh cao mới được phần thanh cao.
(Xem: 3574)
“Phật tánh là Như Lai tạng” (phẩm Như Lai tánh). Tạng có nghĩa là bao trùm chứa giữ tất cả chúng sanh và muôn sự muôn vật, tất cả hiện hữu thanh tịnhbất tịnh.
(Xem: 3609)
Đừng vấn vương quá khứvọng tưởng tương lai Quá khứ đã qua rồi Ngày mai còn chưa tới
(Xem: 3947)
Chữ nghiệp trong nhà Phật nói, ý nghĩa của nó rất sâu rộng. Ở đây, chúng tôi chỉ xin giải đáp một cách đại khái sơ lược thôi.
(Xem: 3309)
Phật giáo trên con đường truyền bá và hội nhập luôn gắn liền với hai yếu tố căn bản: khế lý và khế cơ.
(Xem: 3450)
Câu chuyện nhỏ, do cơ duyên, xảy ra đã lâu, dường như lâu tới hơn hai thế kỷ! Lâu vậy, mà như không lâu, câu chuyện, ngỡ bình thường mà...
(Xem: 3287)
Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, đã được chính Đức Thế Tôn tuyên dương là Bổn Kinh Thượng Thừa, bao gồm những bí yếu cực kỳ nhiệm mầu
(Xem: 5512)
Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, đã được chính Đức Thế Tôn tuyên dương là Bổn Kinh Thượng Thừa, bao gồm
(Xem: 3634)
Vận mạng của một thực thể đi qua trong nhận thức được giới hạn ở hai đầu sinh và diệt, đoạn và thường của không gianthời gian
(Xem: 3837)
Trong bài phát biểu của Ngài trước đám đông đến từ Tây Tạng vào ngày 27 tháng 3 năm 2006 vào cuối buổi thuyết giảng
(Xem: 3519)
Theo Phật giáo, nghiệp là hành động có tác ý, chủ ý của thân (Kāya, 身), khẩu (Vacī, 口), ý (Mano, 意).
(Xem: 3583)
Bạch Đức Thế Tôn, sau khi một chúng sanh qua đời họ sẽ tái sanh về đâu?
(Xem: 3777)
Từ xưa đến nay người ta vẫn thường nhắc đến chữ Tâm trong đời sống, coi đó như một phẩm chất đạo đức, một yếu tố ...
(Xem: 3520)
Mỗi năm, khi mùa mưa đến, chư Tăng Ni thường thu xếp mọi duyên để tập trung về một trụ xứ nhằm thực hiện phận sự an cư.
(Xem: 3914)
Một thời Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng Lâm, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo rằng:
(Xem: 3870)
Từ xưa đến nay, nhiều người cho rằng, Đạo Phật chuyên nói về những điều cao siêu huyền bí, rất khó để một con người bình thường thực hành theo.
(Xem: 3654)
Phật giáo Nam tông Theravāda tuy không chú trọng về lễ nghi, cúng bái hoặc sám tụng nhưng trong các nghi lễ Phật giáo thì...
(Xem: 3830)
Xung quanh các hiện tượng mê tín dị đoan “có tổ chức” diễn ra gần đây, đã có nhiều ý kiến trái chiều về “con đường tu tập”
(Xem: 3542)
Lắng nghe và thấu hiểu là hai chất liệu vô cùng cần thiết để hiến dâng cho đời, có khả năng xóa đi những nỗi khổ niềm đau
(Xem: 4152)
Chủ đề bài này là nói về tỉnh thức với tâm không biết. Như thế, nghĩa là những gì rất mực mênh mông, vì cái biết luôn luôn là có hạn.
(Xem: 3703)
Một khi Đức Đạt Lai Lạt Ma rời Tây Tạng, ngài sẽ phải đối diện với nhiệm vụ khó khăn về việc nói với thế giới những gì đã xảy ra...
(Xem: 4122)
Có hôm nghe một trí thức Việt Nam cho rằng, Phật giáo xem cuộc đời sanh đó, tử đó, thật chẳng có ý nghĩa gì. Mọi sự mọi vật trên thế gian trong cái nhìn của đạo Phật, đều là huyển, ảo.
(Xem: 3524)
Năm 1959 một sự đe dọa của Tàu Cộng chống lại Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa đến sự phản kháng ở Lhasa.
(Xem: 3397)
Đạo Phật ra đời cách đây đã hơn 25 thế kỷ và trải qua bao cuộc thăng trầm của lịch sử, vẫn phát triển rực rỡ đến ngày nay.
(Xem: 3778)
Theo quan điểm Phật Giáo, tâm của một người bình thường thì yếu đuối và bị lệch lạc bởi những ảo tưởng và nỗi khổ mà họ chất chứa bên trong.
(Xem: 3716)
’Khi một ngôi sao đốt cháy hết nhiên liệu, nó có thể bắt đầu quá trình suy sụp.
(Xem: 4262)
Trong cuộc sống, chúng ta thường mong muốn có được hạnh phúc và tránh né sự hiện hữu của khổ đau đến với mình.
(Xem: 3993)
Phật pháp có nhiều pháp môn tu tập thích hợp cho nhiều căn cơ, hoàn cảnh khác nhau.
(Xem: 3507)
Dưới ánh mặt trời, mọi ảo tượng, ảo ảnh đều tan biến. Mọi thứ đều hiển lộ. Không gì khuất tất. Không gì có thể gợi lên sự hoài nghi, mộng tưởng.
(Xem: 3485)
Sau khi đạt được Giác ngộ, Đức Phật nêu lên Bốn Sự Thậtsự thật thứ nhất là "Khổ đau".
(Xem: 3516)
Thiền sư Pháp Loa đã kế thừa và để lại di sản lớn cho thiền phái Trúc Lâm nói riêng, Phật giáo Việt Nam nói chung.
(Xem: 3122)
Trong kỳ Đại Hội Khoáng Đại kỳ II lần nầy chúng con tôi) được phép trình bày với quý Ngài và quý vị một đề tài có liên quan đến sự tu học
(Xem: 3263)
Kinh Đại Bát Niết Bàn nói: “Phật tánh gọi là đại tín tâm. Vì do tín tâmĐại Bồ tát được đầy đủ Bố thí ba la mật cho đến Bát nhã ba la mật.
(Xem: 4620)
Thời đại bây giờ hầu như con người cứ bị xoáy vào cơn lốc của cuộc sống một cách mãnh liệt, thế nên rất nhiều người cảm thấy bức bối...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant