Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Pháp Xuất Gia Trong Luật Tạng Pali Và Luật Tứ Phần

16 Tháng Mười Hai 202120:01(Xem: 2887)
Pháp Xuất Gia Trong Luật Tạng Pali Và Luật Tứ Phần
Pháp Xuất Gia Trong Luật Tạng Pali Và Luật Tứ Phần 

Thích Nữ Liên Liên

loi-phat-day-2


Khi Đức Phật còn hiện hữu cõi Ta-bà, chúng đệ tử xuất gia sống thanh tịnh, hòa hợp thành một thể thống nhất, cùng nhau sinh hoạt, cùng nhau tu học trong môi trường phạm hạnh; tất cả đều tự giác tuân thủ hành trì theo giáo pháp và những nội quy do Ngài đề ra. Tuy nhiên, sau khi Đức Phật nhập Niết-bàn, hội chúng Tăng đoàn bắt đầu có sự mâu thuẫn, chống đối, bất hòa với nhau. Qua thời gian, trong hệ thống Tăng đoàn bắt đầu có sự phân chia giáo phái. Các giáo phái đều tuân thủ theo những gì Đức Phật đã định nhưng cũng tồn tại một số dị biệt giữa họ do lập trường tư tưởng, quan điểm khác nhau. Trong số các bộ phái ấy có Theravāda và Dharmaguptaka. Hai bộ phái này có hai bộ luật riêng. Theravāda có bộ luật Pāli còn Dharmaguptaka có bộ luật Tứ phần. Ở bài viết này, người viết dựa vào vào hai bộ luật vừa nêu để so sánh phương thức xuất gia giữa hai bộ luật của hai truyền thống Phật giáo, xem xét những điểm tương đồng và dị biệt được nêu ra trong đó.

Điểm tương đồng

- Đối với bậc Vô lậu

Thời Đức Phật còn tại thế có nhiều vị Thánh tăng xuất hiện. Và đối với những bậc thiện căn thiện trí, chỉ qua một vài lần nghe pháp được Đức Thế Tôn thuyết giảng, họ có thể giác ngộ, chứng đắc Thánh quả. Với những bậc này, Đức Thế Tôn chỉ đơn giản nói lời xác nhận sự xuất gia của họ. Điểm này có sự tương đồng giữa luật Tứ phần và Luật tạng Pāli.

Với Luật tạng Pāli, câu nói xác quyết “Này các Tỷ-kheo, hãy đến. Pháp đã khéo được thuyết giảng, hãy thực hành Phạm hạnh một cách đúng đắn để chấm dứt khổ đau”1 có mặt khắp trong bộ luật. Trong Tứ phần luật, Đức Phật dạy: “Hãy đến đây, Tỷ-kheo! Hãy ở trong pháp của Ta, tự chứng nghiệm, tu Phạm hạnh, để đoạn tận nguồn khổ”.2Khi Đức Phật cất lên lời này, vị thiện nam dứt sạch các trần cấu, đắc pháp nhãn tịnh, thấy pháp, đắc pháp, thành tựu các pháp, tự thân đạt được quả chứng, phát tâm xuất gia, muốn tu Phạm hạnh trong giáo pháp của Đức Như Lai. Ngoài ra, câu nói ấy còn là sự xác quyết vị Tỷ-kheo kia đã được thọ giới Cụ túc. Ở đây chúng ta thấy rằng, quá trình xuất gia tu họcthọ giới Cụ túc (tu lên bậc trên - theo cách diễn đạt của Luật tạng Pāli) của các vị này hầu như diễn ra trong cùng một lúc. Trước đó còn đang là một vị thiện nam nhưng sau khi nghe lời thuyết giảng từ Đức Phật, tức thì giác ngộtrở thành một Tỷ-kheo như pháp, đắc Thánh quả sau khi Đức Thế Tôn xác quyết bằng câu nói trên.

Nói cách khác, vào thời Đức Phật tại thế, khi Ngài xác quyết, khuyến tấn một vị xuất gia (như trên đã trình bày) là đồng nghĩa vị ấy đã liễu sinh thoát tử, chứng đắc Thánh quả. Thọ giới Cụ túc chính là vị ấy đã là Thánh tăng. Đây là điểm khác biệt rõ ràng giữa xuất gia - thọ giới của các bậc Vô họcphàm phu Tăng.

- Độ phàm tăng xuất gia

Sau khi Tăng bảo hình thành kể từ lúc Tăng đoàn được thành lập, lúc ấy nhiều người ở nhiều xứ sở khác nhau muốn xuất gia đã theo các Tỷ-kheo đến xin Đức Thế Tôn cho phép được xuất gia. Như thế, dù ở bất cứ địa phương nào, nếu muốn xuất gia thì những vị này phải đến nơi Đức Phật đang cư trú. Đức Phật nhận thấy “Trong trường hợp ấy, chính các vị Tỷ-kheo, luôn cả những người có ý muốn xuất gia đều mệt nhọc”3 nên Ngài cho phép từ đó về sau, các Tỷ-kheo ở mọi trú xứ, mọi địa phương, khi có người khởi tâm muốn xuất gia thì chính các vị Tỷ-kheo ấy được phép làm lễ xuất gia cho họ. Pháp xuất gia được Đức Phật dạy như sau:

Trước tiên, nên cho cạo bỏ râu tóc, cho choàng lên các tấm vải màu hoại sắc, cho đắp thượng y một bên vai, bảo đảnh lễ ở chân các vị Tỷ-kheo, bảo ngồi chồm hổm, bảo chắp tay lên, và nên bảo rằng: “Ngươi hãy nói như vầy: Tôi đi đến Đức Phật là nơi nương nhờ (Tôi xin quy y Phật). Tôi đi đến giáo pháp là nơi nương nhờ (Tôi xin quy y Pháp). Tôi đi đến với hội chúng là nơi nương nhờ (Tôi xin quy y Tăng).” (Lần thứ hai và thứ ba đều đọc như vậy).4

Và theo Tứ phần luật, Đức Phật đã dạy người phát tâm xuất gia phải như sau: “…Như pháp sau đây: Cho cạo tóc, dạy mặc ca-sa, để trống vai bên hữu, cởi bỏ dép, đầu gối bên hữu chấm đất, chắp tay thưa: ‘Con là… quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng Tỷ-kheo. Con ở trong pháp của Như Lai xuất gia học đạo. Đức Như Lai là bậc Chí chân, Đẳng Chánh giác của con!’”.5 (Lần thứ hai và thứ ba đều đọc như vậy).

Như vậy ở điểm này, về cơ bản cả Tứ phần luật lẫn Luật tạng Pāli đều tương đồng nhau. Hay nói cách khác, ở cả hai bộ luật này, một người muốn xuất gia trước hết phải cạo sạch râu tóc, mặc áo ca-sa, đến trước đại chúng ba lần đọc lời phát nguyện nương tựa vào ba ngôi báu. Đó là pháp xuất gia cơ bản.

Bên cạnh đó, khi Đức Thế Tôn ngự tại thành Kapilavatthu, ở tu viện Nigrodha, vào buổi sáng, Ngài đã mặc y, cầm bát vào cung điện của vua Tịnh Phạn (Suddhodana). Mẹ của Rāhula bảo con mình đến xin phần thừa kế từ Đức Thế Tôn và Rāhula đã làm theo lời mẹ mình chỉ dạy. Khi ấy Đức Phật đã dạy Tôn giả Xá-lợi-phất (Sāriputta) làm pháp xuất gia cho hoàng tử Rāhula. Và cũng từ việc độ Rāhula xuất gia, Đức Phật quy định người muốn xuất gia phải có sự đồng ý của cha mẹ, nếu khôngcha mẹ thì phải có sự đồng thuận từ người bảo hộ. Đây cũng là điểm giống nhau thứ hai giữa cả hai truyền thống luật.

Ngoài ra Đức Phật còn quy định rằng người bị khuyết tật, thiếu căn, hay kẻ tội đồ bị truy nã… đều không được xuất gia, nhằm tránh việc người không có tín tâm sinh lòng bất kính đối với Tam bảo. Đây là điểm tương đồng thứ ba giữa hai hệ thống luật về việc xuất gia. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn tồn tại vài điều dị biệt giữa hai bộ phái này.

Điểm dị biệt

Chúng ta có thể tóm tắt các điểm dị biệt của hai truyền thống luật ở bảng sau:

Nhận xétTứ phần luật có phần khai thoáng hơn, có thể cho phép người khác xuất gia dù không đủ Tăng, chỉ cần đến từng phòng rồi thưa cho các vị ấy biết có người xuất gia là được. Trong khi với Luật tạng Pāli, muốn độ người xuất gia thì nhất thiết phải tác pháp giữa đại chúng rồi mới được làm lễ xuất gia.

Như vậy, pháp xuất gia được Đức Phật chỉ dạy rất đơn giản. Điều tiên quyết nhất vẫn là phải phát tâm quy y, xin trở về nương tựa vào Đức Phật, giáo phápTăng chúng (Phật - Pháp - Tăng). Người khởi tâm muốn vào cửa đạo, sống đời cắt ái ly gia thoát tục phải có niềm tin sâu sắc và tôn kính đối với Tam bảo; cơ thể lành lặn, đầy đủ các căn; không phải là người mang tội bị lệnh truy nã, và quan trọng phải có sự chấp thuận của cha mẹ hoặc người bảo hộ, được như vậy mới độ cho họ thế phát xuất gia tu họcthọ giới lên bậc trên.

Tựu trung lại, xuất gia dù ở thời đại nào, không gianthời gian nào đều là việc làm từ chính sự phát tâm với tâm nguyện hoài bão muốn trở về tu học trong giáo lý của Phật-đà, bước đầu đặt chân trên đạo lộ tiến về giác ngộ, giải thoát. Người phát tâm xuất gia là đã xác định hướng đi cho chính mình ở hiện tại và tương lai gần, chấp nhận mọi thử thách trên bước đường mình đã chọn. Từ đó, tâm thái và oai nghi được hình thành, nương tu tập thọ trì giới pháp mà trở nên oai nghi, giới đức tỏa sáng, cảm hóa người cùng huân tu.

Thích Nữ Liên Liên/ Nguyệt san Giác Ngộ

_________________________________

(1) Xem Đại phẩm, tập 1, chương Trọng yếu, Indacanda dịch, NXB.Tôn Giáo, 2017.

(2) Xem Luật Tứ phần, tập 3, chương Thọ giới, HT.Thích Đỗng Minh dịch, NXB.Phương Đông, 2013.

(3) Đại phẩm, tập 1, Indacanda dịch, NXB.Tôn Giáo, 2017, tr.37.

(4) Sđd., tr.38, 39, 160, 161.

(5) Luật Tứ phần, tập 3, HT.Thích Đỗng Minh dịch, NXB.Phương Đông, 2013, tr.1223.

(6) Xem Đại phẩm, tập 1, Indacanda dịch, NXB.Tôn Giáo, 2017, tr.176-178.

(7) Xem Luật Tứ phần, tập 3, Thích Đỗng Minh dịch, NXB.Phương Đông, 2013, tr.1213-1220.

(8) Đại phẩm, tập 1, Indacanda dịch, NXB.Tôn Giáo, 2017, tr.153.

(9) Sđd., tr.1228.

(10) Luật Tứ phần, tập 3, HT.Thích Đỗng Minh dịch, NXB.Phương Đông, 2013, tr.1225.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2311)
Cái chết của những người thân yêunghiệp chướng của tôi hay của họ? Cuộc sống của chúng ta luôn tương tác và phụ thuộc lẫn nhau, và...
(Xem: 2774)
Một người đàn ông ngã bệnh và tìm đến bác sĩ. Vị bác sĩ khám cho bệnh nhân này và sau đó viết cho anh ta một toa thuốc trên một mảnh giấy.
(Xem: 2556)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2245)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2669)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2547)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2378)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2683)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2457)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3278)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2334)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2428)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2562)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2482)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2559)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2235)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2604)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3071)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2666)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2732)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 3020)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2580)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2622)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4123)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2792)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3089)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3328)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2302)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2533)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2816)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 3019)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2887)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2633)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2643)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3204)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2669)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2322)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2413)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2496)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2610)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2706)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2766)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3289)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2574)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2137)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2614)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2120)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2896)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2995)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2972)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant