Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bốn mùa lá rụng

19 Tháng Chín 201000:00(Xem: 18617)
Bốn mùa lá rụng

Trong văn học cũng như trong thực tế, người ta thường đề cập đến mùa thu có lá rơi, nhưng ít ai lại thấy thực tế hơn, chính xác hơn là trong bốn mùa, mùa nào cũng có lá rơi rụng cả.
Người ta thường thấy mùa xuân hoa nở, nhưng ít người thấy mùa xuân có lá rụng. Chính không thấy mùa xuân có lá rụng, khiến cho nhiều người đã định hướng cuộc đời của mình một cách mơ hồ, không thực tiễn. Trong mùa xuân có mặt của cả mùa đôngmùa hạ, trong mùa hạ có mặt của cả mùa xuânmùa thu, trong mùa thu có mặt của cả mùa hạmùa đông, và trong mùa đông đều có mặt của cả mùa thumùa xuân, đó là cách nhìn hết sức thực tiễn của thiền quán.
Và cách nhìn thực tiễnchính xác hơn nữa, là trong mỗi mùa đều có chất liệu của cả ba mùa kia, nên mùa nào cũng có lá rụng và mùa nào cũng có hoa nở cả.
Bằng cái nhìn thiền quán ấy, ta mới khám phá ra nơi tự thân của chính ta và của những người chung quanh ta, với bất cứ độ tuổi nào cũng có thể nở hoa và với bất cứ độ tuổi nào cũng có thể rơi rụng và với độ tuổi nào ta cũng có niềm vui và nỗi buồn của chính độ tuổi ấy.

Chúng ta đừng bao giờ nghĩ rằng, tuổi già không có niềm vui và tuổi trẻ không có nỗi buồn. Hiện nay giới trẻ, có những vị có rất nhiều nỗi buồn, có những vị buồn cho số phận hẩm hiu của chính mình, có những vị buồn cho hoàn cảnh của gia đình mình, cha và mẹ không hòa thuận với nhau, anh và em không có sự thương yêu tương kính, tương thuận nhau, nhưng cũng có những vị buồn vì cho rằng:

“Lũ chúng ta đầu thai lầm thế kỷ 
Bị quê hương ruồng bỏ giống nòi khinh”.

Cảm giác rằng, mình sinh ra đời không đúng lúcsai lầm thời đại, đó là những cảm giác thất vọng và khổ đau, nhưng cảm giác thất vọng và khổ đau hơn nữa, là mình đã vọng tưởng rằng, mình đã bị quê hương ruồng bỏ, mình đã bị giống nòi khinh! Và nếu ta sống với những cảm giác như vậy, thì cuộc đời của ta bốn mùa đều là lầm lũi và trở nên băng giá. 

Trong tất cả chúng ta, đến hành tinh này đều là thụ động và rồi ta từ giã hành tinh cũng là thụ động. Ta đâu có tự sinh mà cha mẹ của ta sinh, khi sinh rồi ta đâu có muốn chết, mà cái chết vẫn đến với ta bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu. Nên ta không có thẩm quyền để chọn lựa sự sinh ra và sự chết đi của ta ngay từ buổi ban đầu. Ngay từ buổi đầu ta có thẩm quyền chọn lựa đâu mà lầm với không lầm! Khi nào ta có thẩm quyền chọn lựa cha mẹ, dòng họthời đại hay xã hội đểø ta sinh ra mà ta sinh ra không đúng với những gì mà ta đã chọn lựa, thì đó mới gọi là lầm, nhưng thử hỏi trong tất cả chúng ta ai là người không lầm?

Vì là thụ động trong sự sinh ra và trong cái chết đi, nên đầu thai lầm thế kỷ là điều khó tránh khỏi, nhưng khi lớn lên ta đã được học hành và ta đã có ý thức đối với cuộc sống, mà ta chọn cho ta một cách sống hay một định hướng sai lầm, đó mới là điều thật đáng than trách. Và điều đáng than trách hơn nữa, là do ta đã chọn cách sống và định hướng sai lầm, nên ta đã bỏ dòng họ và quê hương của ta và rồi ta có cảm giác là ta bị quê hương ruồng bỏ giống nòi khinh! Nhưng thực ra, chẳng có quê hương nào ruồng bỏ mình mà do mình mặc cảm quê hương, rồi trốn chạy; và chẳng có ông bà nào trong dòng họ mà khinh con cháu, nhưng do con cháu vì mặc cảm tự tôn hay mặc cảm tự ty mà chạy theo tà kiến, nên không những quên mất dòng họ mà còn kết án dòng họ!

Quên mất dòng họ, chính là quên mất quê hương và quên mất quê hương là quên mất đường về. Đối với tuổi trẻ đánh mất quê hương, chính là đánh mất bản chất mùa xuân của chính mình. Và đối với tuổi già cũng có những vị đã đánh mất quê hương và dòng họ của chính họ, nên họ đã trầm mình trong những tháng ngày đông giá lạnh. Nhưng cũng có những vị đã tìm ra được những niềm vui thanh khiết, trong những ngày còn lại của đời người và họ sống hết sứcý nghĩa, và họ đã tạo ra được mùa xuân cho chính họ vào tuổi già, đồng thời họ cũng đã tạo ra được mùa xuân cho cả con cháu của họ.

Bởi vậy, mùa thu hay mùa đông, mùa xuân hay mùa hạ của thiên nhiên là có ước lệ của thời gian nhất định, nhưng mùa thu hay mùa đông, mùa xuân hay mùa hạ thuộc về tâm hồn của con ngườibất định về thời gian, nghĩa là có khi chỉ cần trong một khoảnh khắc mà sự sống con người trở thành vĩnh cửu và vô hạn, nhưng cũng có khi, con người kéo lê đời mình cả trăm năm trong vô vọng, mà chẳng có một chút ý nghĩa nào, ngoài sự lo lắngsợ hãi, ngoài việc sống để giành giựt hơn thua, để rồi tạo ra mùa hè nóng bức hay mùa đông băng giá cho nhau!

Thực sự, trong cuộc sống của con người, ở nơi nào có đấu tranh, có giành giựt, thì ở nơi đó có sự oi bức của mùa hạ, chính sự oi bức của mùa hạ ấy, mới làm cho đời sống của con người bị chết ngột không có lối thoát; chính cái oi bức của mùa hạ ấy, mới đốt cháy hết sạch mọi hạnh phúc trong đời sống của con người. Sự oi bức do mùa hạ của thiên nhiên đem lại, con người có thể vượt qua được bằng những tiện nghi của khoa học hiện đại, nhưng sự oi bức của mùa hạ trong tâm hồn, thì không có một văn minh khoa học nào có thể giúp ta vượt qua, ngoài sự thiền quán để an tịnh tâm ý và nuôi dưỡng chất liệu từ bi trong ta.

Và sự băng giá hay lạnh cóng của khí hậu thiên nhiên mùa đông, ta cũng có thể sử dụng những tiện nghi của khoa học hiện đại để vượt qua, nhưng sự băng giá và lạnh buốt của tâm hồn, thì cho dù những tiện nghi của khoa học có hiện đại đến bao nhiêu đi nữa, cũng không thể giúp ta vượt ra khỏi tình trạng ấy. Ta có thể vượt ra khỏi tình trạng ấy, khi nào ta biết bật ngọn đèn chánh niệm ở nơi tâm ta lên, khi tâm ta đã có ngọn đèn chánh niệm, ta biết rõ ta đang hiện hữu với tất cả những gì toàn vẹn trong từng giây, từng phút của sự sống, và mỗi giây phút đi qua đời ta là mỗi giây phút sống động nhiệm mầu, là mỗi giây phút đưa ta đi đến với thời gian không giới hạn, với không gian vô cùng.

Thực sự, không có sự sống nào gọi là sự sống khép kín, bản chất của sự sống là mở. Ta phải mở và thả ra tất cả những gì mà ta đã nắm bắt trong một đời người. Ta phải buông thả những ý niệm và những tri giác sai lầm trong ta về thời giankhông gian ra. Ta phải thả mùa xuân trong đời sống của ta ra, thì mùa hạ trong đời sống của ta không có lý do gì để có mặt. Trong đời sống của ta, mùa hạ đã không có lý do để có mặt, thì mùa thumùa đông cũng theo đó mà lặng yên.

Buông bỏ mùa xuân, nghĩa là buông bỏ mọi hạt giống vô minh, tham ái và hưởng thụ ở trong tâm thức ta, vì trong đời sống của con người, mùa xuân được tạo nên bởi những chất liệu này, mà không phải là những chất liệu của chánh niệm, tuệ giáctình thương, nên mùa xuân ấy là mở đầu cho một sự sống hạnh phúc mơ hồ, mà thất vọng và khổ đau chắc chắn sẽ xuất hiện ở trong mùa hạ và trong những mùa kế tiếp của đời người.

Bằng đôi mắt thiền quán, khi ta thở vào hay ra là ta phải có ý thức toàn thân, chính ý thức ấy, khiến ta có thể tạo ra mùa xuân đầy sức sống, đầy ý vị cho ta suốt cả chiều dài, chiều rộng, chiều cao và chiều sâu của cuộc sống, từ những yếu tố sinh học và tâm học ở trong ta.

Thở với ý thức toàn thân là ta phải có ý thức về toàn thể không gianthời gian trong lúc ta đang thở. Đối với không gian, hơi thở của ta liên hệ chặc chẽ với không khí, với hơi ấm, với thể lỏng và với thể rắn, đồng thời nó gắn chặt với các bộ phận sinh học khác ở trong cơ thể của ta. 

Và quan trọng hơn hết là một khi hơi thở của ta đã gắn chặt được với không gian tâm thức, thì bấy giờ những hạt giống khổ đau ở trong tâm thức ta từ từ lắng yên và chuyển hóa. Lúc ấy mùa xuân đối với ta không gọi mời mà nó vẫn đến, không cần duy trì mà nó vẫn hiện hữu. Nó hiện hữu một cách thanh cao với ý nghĩa toàn vẹn và không có giới hạn.

Thở với ý thức toàn thân là ta ý thức rõ, ở trong thân thể ta từ đầu đến chân không có chỗ nào là không có mặt của hơi thở và trong các bộ phận của cơ thể, không có bộ phận nào là không gắn liền và không liên hệ với hơi thở. Chính hơi thở chánh niệm với ý thức toàn thân, chúng tạo ra năng lực mùa xuân hiện thực cho các bộ phận sinh học trong ta. 

Sở dĩ, hơi thở và các bộ phận trong cơ thể, chúng gắn liền được với nhau là do chúng không có tự tính cho chính nó. Hơi thở không có tự tính cho chính nó, nên hơi thở có thể đến và hòa nhập vào với bất cứ bộ phận nào của cơ thể và có thể trở thành một với các bộ phận ấy. 

Và các bộ phận trong cơ thể cũng vậy, chúng không có tự tính cho chính nó, nên chúng mới tiếp nhận hơi thở một cách tự nhiên. Hơi thở đi vàohiện hữu ở trong các bộ phận và các bộ phận đi vàohiện hữu ở trong hơi thở mà không hề có một sự chướng ngại nào cả.

Bởi vậy, khi thiền quán ta thấy rõ tự thân của ta vốn là “Nhất chân pháp giới”, nghĩa là vũ trụ đang hiện hữu ở trong sự thuần nhất chân thực. Sự hiện hữu này không làm trở ngại đối với sự hiện hữu kia, sự hiện hữu kia không làm trở ngại đối với sự hiện hữu này. Chúng hiện hữu trong nhau, để cùng nhau tạo ra một sự sống vô cùng, hay là một mùa xuân bất tận.

Đối với thời gian, khi ta thở với ý thức toàn thân, thì ta thấy cả bốn mùa đều có mặt trong nhau và bốn mùa đều có mặt trong từng hơi thở của ta. Ta thở vào và ra dài, hay ta thở vào và ra ngắn, thì sự vào và ra của hơi thở, nó liên hệ chặc chẽ từ không gian vật lý đến không gian tâm thức trong đời sống của ta. Và khi ta thở vào và ra dài hay ta thở vào và ra ngắn, thì sự dài ngắn của hơi thở, chúng có liên hệ chặc chẽ từ thời gian vật lý đến thời gian tâm thức trong đời sống của ta.

Không gian vật lý dù lớn mấy cũng nhỏ so với không gian tâm thứcthời gian vật lý dù dài mấy cũng ngắn so với thời gian tâm linh, nên khi thiền quán, có khi ta chỉ ngồi yên lặng để nhìn kỹ tâm ta, mà trong khoảnh khắc ta thấy cả mười phương vô tận thế giới, hay ta ngồi yên lắng để cảm nhận niềm vui của tâm chỉ mới thoáng chốc mà đã trải qua mấy mùa sương tuyết, hay khi ta hẹn ai và chờ đợi thì thời gian vật lý mới chỉ đi qua mấy phút mà ta có cảm giác lâu như thế kỷ.

Bởi vậy, không gian của tâm là không gian vô cùng, nên ta đi mãi trong đó mà không bao giờ chạm phải bởi bất cứ một biên cương nào cả. Và thời gian của tâm là thời gian vô tận, nên sống và chết ta cứ đi mãi ở trong đó, và ẩn hay hiện của chúng, chỉ là những trò chơi đuổi bắt, khi gió nghiệp thổi lên, khiến những ngọn sóng ái triều chập chùng khởi sinh vô tận

Nhưng, một khi gió nghiệp lắng yên, sóng thức không còn có điều kiện để sinh khởi, biển tâm hoàn toàn an tịnh, không còn gợi lên một tý sóng cồn, bấy giờ ta sống trong biển tâm ấy, thì không gian chính là thời gianthời gian chính là không gian, chúng không phải là một mà cũng không phải khác. Ở nơi đó mọi ý niệm hoàn toàn lắng yên. Thực tại vốn không có ý niệm, nếu ta sử dụng ý niệm để ý niệm về thực tại, thì thực tại đó là thực tại của ý niệm mà không phải là thực tại của thực tại.

Khi ta sử dụng ý niệm để phán xét và cảm nghiệm niềm vui và nỗi buồn của cuộc sống, thì chính cái ta đang sống và đang tiếp xúc để cảm nghiệm ấy, là cái đang sinh diệt, chúng là trò chơi được biểu hiện từ tâm thức. Và hẳn nhiên, thế giới mà ta đang sống và đang cảm nghiệm như thế, thì cả bốn mùa đều có lá rơi, chứ không phải chỉ có mùa thu mới có lá rơi và ta cũng có thể rơi bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu, đó là một sự thực của cuộc sống, nó luôn luôn xảy ra cho ta và cho những người chung quanh ta là như vậy
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 595)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 781)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1103)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1268)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 997)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1341)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 791)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 763)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 808)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 823)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 803)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 790)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 948)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 835)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 988)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 1007)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 930)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 932)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 858)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1015)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 956)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 897)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 995)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 910)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 850)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 958)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 885)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1144)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 916)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1017)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1157)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1617)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1165)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1261)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1113)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 978)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 920)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 960)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 806)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1486)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1366)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1330)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1274)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1380)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1334)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1478)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1355)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1208)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1267)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1326)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant