Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bồ Đề Tâm Đồng Với Công Đức Của Tất Cả Phật Pháp

26 Tháng Hai 202215:26(Xem: 2598)
Bồ Đề Tâm Đồng Với Công Đức Của Tất Cả Phật Pháp

Bồ Đề Tâm Đồng Với Công Đức Của Tất Cả Phật Pháp

Nguyễn Thế Đăng

 
Bồ Đề Tâm Đồng Với Công Đức Của Tất Cả Phật Pháp

Bồ đề tâm là phát nguyện và thực hành Bồ tát hạnh để đạt đến giác ngộ trong mong muốn giáo hóa và giải thoát chúng sanh khỏi khổ đau của sanh tử. Như thế Bồ đề tâm gồm hai yếu tố chủ đạo: trí huệ đạt đến giác ngộ và đại bi cứu độ chúng sanh.

Sau đây chúng ta sẽ tìm hiểu về Bồ đề tâm trong phần Đức Di Lặc giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâm sau khi đồng tử đã trải qua một trăm mười vị thiện tri thức, chỉ còn gặp Bồ tát Phổ Hiền là vị cuối cùng. Đoạn này ở phẩm Nhập Pháp GiớiKinh Hoa Nghiêm. Đây là sự giảng dạy của Đức Di Lặc và sau đó cho Thiện Tài vào trong lầu gác của ngài để chứng nghiệm cảnh giới sự sự vô ngại, trước khi gặp Bồ tát Phổ Hiền, vị cuối cùng trên con đường nhập pháp giới thành Phật của đồng tử Thiện Tài.

1/ Bồ đề tâm là sự hợp nhất của trí huệ và đại bi

Mở đầu Đức Di Lặc giới thiệu đồng tử Thiện Tài, đầy đủ đại trí huệđại từ bi và đại hạnh:

Đồng tử này xu hướng Đại thừa, đi trong đại huệ, phát đại dũng mãnh, mặc giáp đại bi, dùng tâm đại từ cứu hộ chúng sanh. Khởi đại hạnh tinh tấn ba la mật, làm đại thương chủ hộ trợ các chúng sanh, làm thuyền pháp lớn vượt qua biển các cõi Hữu, trụ nơi đại đạo, tích tập pháp bảo lớn, tu các pháp trợ đạo rộng lớn. Những người như thế rất khó được nghe, rất khó được thấy, rất khó được gần gũi, cùng ở cùng đi.

Tại sao thế? Vì đồng tử này phát tâm cứu hộ tất cả chúng sanh, làm cho tất cả chúng sanh thoát khổ, vượt khỏi các đường xấu ác, lìa hiểm nạn, phá vô minh che tối, ra khỏi sanh tử, dứt luân lạc trong các loài, vượt cảnh giới ma, chẳng nhiễm pháp phiền não thế gian…” (phẩm Nhập Pháp giớiKinh Hoa Nghiêm).

Bồ đề tâm là ánh sáng trí huệ soi rõ tánh Không, tức là tánh của tất cả các pháp, và đại bi đi cùng, tức là hoạt động cứu độ chúng sanh đang bị cuốn trôi trong dòng sanh tửTrí huệ và đại bi là hai động lực đi cùng nhau làm năng lượng cho con đường Bồ tát.

 

Sau đó Bồ tát Di Lặc nói lý do và công đức của việc phát tâm Bồ đề, tức là tâm Giác ngộ vô thượng:

Lành thay! Lành thay! Này thiện nam tử! Ngươi vì lợi ích tất cả thế gian, vì cứu hộ tất cả chúng sanh, vì siêng cầu tất cả Phật pháp, nên phát tâm Vô thượng Bồ đề.

Thiện nam tử! Ngươi được lợi lành, khéo được thân người, khéo trụ thọ mạng, khéo gặp Như Lai xuất hiện, khéo thấy Văn Thù Sư Lợi đại thiện tri thức. Thân ngươi là thiện pháp khí được những thiện căn thấm nhuần, được pháp trong trắng giữ gìn, mọi mong muốn hiểu biết đều được thanh tịnh, đã được chư Phật đồng hộ niệm, đã được thiện hữu đồng nhiếp thọ.

Tại sao thế? Vì Bồ đề tâm như hạt giống, có thể sanh tất cả Phật pháp”.

Đoạn Kinh này dùng nhiều chữ “thiện”, tốt lành, khéo. Vì sao thế? Vì với Bồ tát thực hành Bồ đề tâm thì có đầy đủ nhân duyên, cơ hội tốt lành: có “tất cả thế gian”, có “tất cả chúng sanh”, có “tất cả Phật pháp”, có “khéo được thân người, thọ mạng”. Trên thì có “chư Phật đồng hộ niệm”, sống và làm việc thì được “pháp trong trắng giữ gìn, các thiện hữu tri thức đồng nhiếp thọ”.

Tóm lại, nói theo ngôn ngữ bây giờ, “nếu một người phát tâm thì được tất cả vũ trụ giúp đỡ”. Chính Bồ đề tâm hạnh hay Bồ tát hạnh khiến cho Bồ tát “tịnh Phật quốc độ, thành tựu chúng sanh, nhập Pháp giới”:

Bồ tát Di Lặc nói về Thiện Tài:

“Đồng tử này trong một đời có thể thanh tịnh Phật độ, có thể giáo hóa chúng sanh, có thể dùng trí huệ thâm nhập pháp, có thể thanh tịnh các Bồ tát đạo, có thể đầy đủ những hạnh Phổ Hiền”.

 

Bồ đề tâm hạnh hay Bồ tát hạnh là sự đồng thời của trí huệ và đại bi, sự đồng thời của lợi mình, lợi người, tự giác và giác cho người khác. Thí dụBố thí ba la mật là một hạnh Bồ tát. Khi bố thí mà không trụ vào các tướng, không trụ vào sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp thì đây là trí huệ ba la mật (theo Kinh Kim Cương) và bản thân sự bố thí là một hành động từ bi. Thế nên Bồ tát hạnh là sự hợp nhất của trí huệ và đại bi, sự hợp nhất của lợi mình lợi người, sự hợp nhất của tự giải thoát cho mình đồng thời với sự giải thoát cho người khác.

 

2/ Những ích lợi thực dụng của Bồ đề tâm

Ở đây chúng ta chỉ tóm gọn ý chính của gần 120 câu kinh nói về ích lợicông hiệu thực dụng của Bồ đề tâm.

Vì sao thế?

Bồ đề tâm như hạt giống, vì có thể sanh tất cả Phật phápBồ đề tâm như ruộng tốt vì có thể sanh trưởng pháp trắng sạch cho tất cả chúng sanhBồ đề tâm như đại địa, vì có thể giữ gìn tất cả thế gian…

Bồ đề tâm được ví như hạt giống, có thể sanh trưởng, phát triển tất cả thiện căn của Phật pháp. Hơn nữa, Bồ đề tâm còn như môi trường cho các thiện căn phát triển và giữ gìn các thiện căn ấy (như ruộng tốt, như đại địa).

Như thế Bồ đề tâm là tâm chúng sanh hiện giờ của chúng ta, chỉ cần phát Bồ đề tâm nguyện và Bồ đề tâm hạnh được phần nào thì phần ấy dần dần chuyển hóa thành Bồ đề tâm.

Bồ đề tâm như mặt trời trong sáng, vì chiếu khắp cả thế gianBồ đề tâm như mặt trăng sáng, vì những pháp trắng sạch đều viên mãnBồ đề tâm như đèn sáng, vì có thể phóng ra quang minh của những pháp. Bồ đề tâm như mắt sáng, vì thấy khắp tất cả các chỗ an, nguy…

Bồ đề tâm là ánh sáng chiếu cho thấy cái đúng cái sai, chỗ an chỗ nguy. Nếu không có ánh sáng ấy con đường đời chúng ta dễ dàng lạc lối, rơi vào hư hỏng và uổng phí. Bồ đề tâm soi sáng cho chúng ta thấy những ý nghĩa và giá trị của đời sống.

 

Bồ đề tâm như cỗ xe lớn, vì có thể chuyên chở khắp các Bồ tátBồ đề tâm như cửa nẻo, vì khai thị tất cả hạnh Bồ tátBồ đề tâm như khu vườn, vì ở trong đó dạo chơi hưởng pháp lạcBồ đề tâm như nhà cửa, vì an ổn tất cả chúng sanhBồ đề tâm là chỗ về, vì lợi ích tất cả thế gianBồ đề tâm là chỗ dựa, vì là chỗ dựa nương của Bồ tát hạnhBồ đề tâm như từ phụ, vì dạy dỗ tất cả Bồ tátBồ đề tâm như từ mẫu, vì sanh trưởng tất cả Bồ tátBồ đề tâm chính là chỗ trụ, vì tất cả Bồ tát đều trụ nơi ấy…

Một vị Bồ tát thì không thể lìa bỏ Bồ đề tâm, vì nó là nhà cửa, chỗ nương dựa, cỗ xe chuyên chở của Bồ tát. Không thể lìa, vì nó là cha mẹ nuôi dưỡng và giáo dục cho mình. Bồ đề tâm còn là khu vườn để dạo chơi và hưởng thụ lạc thú của pháp, khiến cho trần gian dần dần biến thành quang cảnh vui thú, “tam muội tự thọ dụng”.

Bồ đề tâm như thuốc hay, vì trị được tất cả bệnh phiền nãoBồ đề tâm như hố sâu, vì có thể làm sụp đổ tất cả các pháp xấu ác… Bồ đề tâm như chiên đàn trắng, vì trừ dục nóng bức làm cho mát mẻBồ đề tâm như kiếp hỏa đốt cháy, vì thiêu sạch tất cả các thứ hữu viBồ đề tâm như ngọc rồng, vì tiêu được tất cả độc phiền nãoBồ đề tâm như ngọc làm trong sạch nước, vì có thể lắng trong tất cả mọi dơ đục phiền não…

Bồ đề tâm là thuốc chữa lành tất cả mọi khổ đau phiền não, làm cháy tiêu mọi tướng hữu vi, có thể tịnh hóa mọi thứ độc, mọi dơ đục trong tâm để tâm trở lại bản tánh thanh tịnh của chính nó.

Bồ đề tâm như trầm hương đen, vì có thể xông khắp pháp giới. Bồ tâm như thuốc Vô Sanh Căn, vì trưởng dưỡng tất cả Phật phápBồ đề tâm như kho tàng, vì xuất sanh công đức tài bảo không hề thiếu thốnBồ đề tâm như suối trào, vì sanh nước trí huệ không cùng tậnBồ đề tâm như gương sáng rộng khắp, vì hiện khắp tất cả hình tượng pháp mônBồ đề tâm như đại dương, tất cả công đức trọn nhập vào đó”.

Bồ đề tâm trùm khắp pháp giới, không hề thiếu thốn, không cùng tận, rộng khắp và hiện khắp, rộng lớn như đại dươngBồ đề tâm chính là pháp giới, nhập vào Bồ đề tâm chính là Nhập Pháp Giới.

Chúng ta chỉ tư duy một ít về “Bồ đề tâm như thuốc Vô Sanh Căn” Vô Sanh Căn là Gốc Vô Sanh. Gốc vô sanh là gốc tánh Không. Chính tánh Không vô sanh này “trưởng dưỡng tất cả Phật pháp”, nghĩa là tánh Không gồm chứa tất cả Phật pháp, tất cả công đức. Như thế, Bồ đề tâm là trí huệ tánh Không và gồm chứa tất cả công đức. Tích tập trí huệ và tích tập công đức đều đầy đủ trong Bồ đề tâm.

Bồ đề tâm như lưỡi cày bén, vì có thể dọn sạch tất cả ruộng chúng sanhBồ đề tâm như thần kim cương, vì có thể dẹp tất cả kẻ địch ngã kiếnBồ đề tâm như thương nhọn vì có thể xuyên thủng tất cả giáp phiền nãoBồ đề tâm như dao bén, vì có thể chặt được tất cả đầu phiền nãoBồ đề tâm như gươm bén vì có thể chém đứt tất cả áo giáp kiêu mạnBồ đề tâm như cưa bén, vì có thể cưa đứt tất cả cây vô minh…

Bồ đề tâm là những vũ khí tốt nhất để phá tan tất cả vô minhphiền nãochấp ngã và chấp pháp che chướng thực tại pháp giới khiến cho Bồ tát thấy và sống được trong pháp giới vốn xưa nay thanh tịnh.

Bồ đề tâm như áo lông ngỗng, vì chẳng dính tất cả bụi dơ sanh tửBồ đề tâm như sợi bạch diệp vì bản tánh xưa nay thanh tịnhBồ đề tâm như lưu ly thanh tịnh, vì tự tánh sáng sạch không có các dơ bẩnBồ đề tâm như mặt trời sáng sạch, chiếu soi tất cả thế gianBồ đề tâm như núi Tu Di, vì bình đẳng nơi tâm tất cả chúng sanhBồ đề tâm như núi Thiết Vi, vì nhiếp giữ tất cả thế gianBồ đề tâm giống như hư không, vì có những công đức kỳ diệu rộng lớn vô biênBồ đề tâm như cam lồ vì làm cho an trụ cảnh giới bất tử”.

Bản tánh Bồ đề tâm vốn thanh tịnh xưa nay, đó là Bồ đề tâm tuyệt đối hay Pháp thân của Phật bổn nguyên Tỳ Lô Giá Na. Còn Bồ đề tâm mà Bồ tát phát nguyện và thực hành, vì còn giới hạn trong không gian thời gian tương đối nên được gọi là Bồ đề tâm tương đối. Chính nơi Bồ đề tâm tương đối này Bồ tát thâm nhập từng phần vào Bồ đề tâm tuyệt đối, do đó mà có các Địa của Bồ tát.

Sự thực hành Bồ tát hạnh là làm cho Bồ đề tâm tương đối trùng hợp từng phần với Bồ đề tâm tuyệt đốiTrùng hợp được phần nào thì chứng ngộ được Pháp giới vốn thanh tịnh được chừng đó. Như thế con đường Bồ tát là chuyển hóa thế giới này thành Pháp giới thanh tịnh của chư Phật, chuyển hóa thế giới thành “vườn tược vui chơi hưởng thụ pháp lạc”, thành “ngọc như ý, cây như ý”, thành “như Trời Công Đức vì được trang nghiêm bằng tất cả công đức”.

Bồ đề tâm như mạng căn, vì giữ cho Bồ tát trụ thân đại biBồ đề tâm như tấm lưới lớn, nhiếp khắp tất cả không sót chúng sanh nào. Bồ đề tâm giống như mồi câu, kéo lên các loài ở đáy vực sâu. Bồ đề tâm chính là báu diệu vì làm cho tất cả tâm đều hoan hỷBồ đề tâm như hội đại thí vì làm sung mãn tâm tất cả chúng sanh”.

Bồ đề tâm của Bồ tát luôn luôn bao gồm đại bi nên như tấm lưới lớn cứu vớt không sót một chúng sanh nào, dù là những chúng sanh ở dưới tầng đáy của hiện hữu sanh tửBồ đề tâm là ánh sáng trí huệ và nước mát đại bi phát xuất từ Phật tâm nên là báu diệu vì làm cho tất cả tâm chúng sanh đều hoan hỷsung mãn.

 

Đức Di Lặc đã kết thúc đoạn kinh này như sau:

“Này thiện nam tử! Bồ đề tâm thành tựu vô lượng công đức như vậy. Tóm lại, phải biết Bồ đề tâm đồng với công đức của tất cả Phật pháp.

Vì sao thế? Vì do từ Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnhBa đời Như Lai từ Bồ đề tâm mà xuất sanh. Thế nên nếu ai phát tâm Vô thượng Bồ đề thì ắt đã xuất sanh vô lượng công đức, có thể nhiếp giữ khắp đạo Nhất thiết trí”. 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2418)
“… Đêm qua trăng mọc trên đồi, thấy tâm tịch lặng không người, không ta, ai hỏi thì nhấc cành hoa, thấy gì, được thấy, đều xa muôn trùng …”
(Xem: 1850)
Tôi thường thắc mắc tại sao mình dự tính làm điều này thì có khi lại đổi sang làm chuyện khác mà mình không hề suy tính được.
(Xem: 1922)
Sống trong đời này, chúng ta thường hay nghe những ngôn từ bình dị, than thở rằng: “Trần ai - trong cõi tạm, là gì - ra sao?”
(Xem: 1790)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2165)
Khi mới vào đạo, điều đầu tiên chúng ta được dạy là không nhìn lỗi của người khác.
(Xem: 2143)
Sống ở đời ai cũng mong cầu được hạnh phúc. Hạnh phúc là gì?
(Xem: 2281)
Ở đời bất cứ sự kiện nào xảy ra cũng có nguyên do của nó. Như bài kinh “Bát Đại Nhân Giác” xuất hiện trên thế gian này cũng không ngoại lệ.
(Xem: 1778)
Hai chữ vô thường rất quen thuộc với mọi người chúng ta, trong đời sống hàng ngày ai ai cũng nghe và nói.
(Xem: 2084)
Tư tưởng nhân quả Phật giáotư tưởng nổi bật trong nhân sinh quan Phật giáo.
(Xem: 1791)
Chúng ta đang chứng kiến những bất ổn xã hội hay thiên tai trên toàn thế giới, Việt Nam không phải là ngoại lệ khi gần đây
(Xem: 1773)
Sống phải có niềm tin, nhưng đừng tin quá vào một người, dù người đó là ai, có địa vị như thế nào trong xã hội.
(Xem: 1951)
Đức Phật đã dạy cho hàng đệ tử về mối tương quan và lợi ích của việc thực hành bốn nhiếp pháp trong Kinh Tăng Chi Bộ,
(Xem: 1947)
Đức Phật Thích Ca Như Lai của chúng ta, lúc mới phát tâm, đã vì ta mà tu Bồ tát đạo, trải qua vô lượng kiếp chịu đủ các thứ khổ cực.
(Xem: 1602)
“Không làm các việc ác Siêng làm các việc lành Thanh tịnh hoá tâm ý…”
(Xem: 1785)
Việc khấn nguyện, cầu nguyện là một vấn đề tâm linh rất phổ biến của tín đồ mọi tôn giáo và không cứ gì mùa xuân mà việc khấn nguyện...
(Xem: 2120)
Hồi sáng, lúc đi thiền hành ở Xóm Thượng, tôi đi xuôi xuống chùa Sơn Hạ. Mỗi bước chân giúp tôi tiếp xúc với sự sống rất sâu sắc
(Xem: 1869)
Chế độ ăn kiêng của bạn có thể giúp dự đoán bạn sống được bao lâu.
(Xem: 2466)
Đức Phật dạy “Thân người khó được, Phật pháp khó nghe”. Biết điều này, khi được là con Phật, ta sẽ thấy mình thật hạnh phúc vì ...
(Xem: 1770)
Không ít Phật tử đến chùa quy y, học Phật pháp, công quả, tham gia các hoạt động Phật sự, thường theo cảm tình đối với người Thầy ở nơi mình đến hơn là...
(Xem: 1772)
Giữ năm giới là khó, giữ gìn một cách hoàn hảo càng khó hơn. Muốn giữ giới hoàn hảo, trước phải học và thông hiểu về mỗi giới
(Xem: 1737)
Đóng cửa các nẻo đường xấu ác để chúng sanh không bị sa rớt xuống các nẻo địa ngục, quỷ đói, súc sanh.
(Xem: 2184)
“Chớ bảo xuân tàn, hoa rụng hết. Đêm qua sân trước một cành mai”
(Xem: 2002)
Người ta nói uống trà là thú vui tao nhã, thanh cao. Thú vui cuộc đời nói chung có hai loại là thanh cao và không thanh cao.
(Xem: 2150)
Mỗi khi mùa xuân mới về là trời đất lại thanh tân, vạn vật muôn loài thay áo mới nhưng lòng người thì vẫn cũ, vẫn chẳng đổi thay,
(Xem: 1684)
Nếu mùa xuân là cái gì tươi đẹp nhất thì đó phải là vẻ đẹp từ sự biết ơn trong tâm hồn của mỗi người.
(Xem: 2301)
Mùa xuân hải ngoại trời lạnh lắm nhưng lòng người ấm áp vì nhớ về những mùa xuân dân tộc.
(Xem: 1629)
Không biết từ khi nào, có lẽ từ lâu lắm rồi, trà là một trong những thứ không thể thiếu trong các gia đình của người phương Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng.
(Xem: 1923)
Mùa xuân là mùa khởi đầu năm mới. Năm mới thường mở đầu bằng một mùa xuân mơ ước đầy khát vọng, hoài bão.
(Xem: 1822)
Bóng chiều ngã dài, trên sườn đồi, vài sợi mây xanh vươn vấn, tiếc nuối dư hương nhạt nhòa, chạnh lòng băng giá khách tha phương tìm về cố quốc
(Xem: 1872)
Đạo đức học Phật giáo là một hệ giá trị bền vững cùng năm tháng, xuất phát từ tuệ nhãn của bậc Thiện Thệ hơn hai nghìn sáu trăm năm trước.
(Xem: 1714)
Trong Trung luận hay Trung đạo luận hay Trung quán luận (Mulamadhyamakakarika, Căn bản Trung luận tụng), bản văn căn bản của ngài Long Thọ,
(Xem: 2459)
Ngày Tết cũng là dịp để những người con Phật suy nghiệm về lẽ vô thường biến dịch của vạn pháp và của chính thân phận mình.
(Xem: 2173)
Sự tha thứ chữa lành vết thương cho người mà bạn cho là đã xúc phạm và chính bạn, người bị xúc phạm.
(Xem: 2110)
Cuối thế kỉ XIX cờ Phật giáo được thiết kế nhằm tượng trưngđại diện một cách thống nhất cho Phật giáo và được Phật tử trên khắp thế giới sử dụng.
(Xem: 1920)
Ngôn ngữ là hình thái biểu đạt ý tưởng.Tùy mỗi chủng loại có một âm ngữ riêng; âm ngữ của con người thể hiện qua ngôn ngữ ...
(Xem: 2313)
Chúng ta thường đấu tranh với việc chọn món quà nào là hoàn hảo. Chúng ta tập trung sự chú ý của mình chủ yếu vào các đối tượng và sự kiện.
(Xem: 1881)
Thực hành Tịnh độđơn giản. Cách tu tập này không yêu cầu hành giả phải được học về tư tưởng Phật giáo hoặc đặc biệt về giới, về thiền hoặc kỷ luật tâm linh.
(Xem: 1962)
Một trong những kết luậnPhật giáo và các nhà khoa học đều đồng ý là không có đấng tạo hóa.
(Xem: 2206)
Thiền pháp tỉnh thức (mindfulness meditation) đang trở thành một trong các khuynh hướng ưu thắng của nhiều lĩnh vực hoạt động tại Hoa Kỳ và nhiều nước khác.
(Xem: 1723)
Đức Phật giảng dạy tám mươi bốn ngàn pháp môn, mỗi pháp môn phù hợp cho trình độcăn cơ của chúng sinh tiếp nhận,
(Xem: 1984)
Niềm tin là nguồn nguyên liệu cần thiết cho sự sống. Không có niềm tin, con người ta sẽ chết, hoặc sống gần như chết
(Xem: 2000)
Tu, rốt cuộc là để nhìn vạn pháp đúng như chính nó.
(Xem: 2212)
Niệm Phật là một pháp môn dễ học, dễ tu, được đức Phật dạy rất sớm, rất nhiều trong các kinh, từ kinh Nikaya hệ thống ngôn ngữ Pali của Phật giáo Nguyên thủy.
(Xem: 1979)
Bài kinh “Bốn Hạng Người Hiện Hữu Ở Đời” được ghi lại trong Tăng Chi Bộ Kinh I, chương 4, phẩm Bhandagàma, phần Thuận Dòng.
(Xem: 1813)
Bài viết này được biên soạn bởi có nhiều Tỳ khưu hỏi tôi về những giới luật sử dụng tiền bạc được tìm thấy trong vinaya (Tạng Luật).
(Xem: 1789)
Đạo Phật có phải là một tôn giáo không là một câu hỏi không mới nhưng không cũ đối với những ai đến với đạo Phật chỉ bằng con đường tín ngưỡng đơn thuần.
(Xem: 1815)
Đi chùa lễ Phật, cầu gia hộ. Trước buổi học Phật pháp, hay lễ hội Phật sự, nghi thức đầu tiên đều là “niệm Phật cầu gia hộ”.
(Xem: 1921)
Đúng là nếu giữ được năm giới thì cơ bản sẽ không rơi vào ba đường ác và được tái sinh ít nhất là vào cõi người,
(Xem: 2219)
Trong kinh Thừa tự pháp, đức Phật dạy hàng đệ tử nên thừa tự giáo pháp của Ngài chứ không nên thừa tự tài vật của Ngài.
(Xem: 1759)
Trong các kinh Bát nhã ba la mật giảng nói nhiều về tánh Không với những phẩm tính như vô tự tánh, vô sở hữu, bất khả đắc, vô sanh, như huyễn…
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant