Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đi Vào Lầu Gác Sự Sự Vô Ngại Của Đức Di Lặc

19 Tháng Ba 202216:01(Xem: 2068)
Đi Vào Lầu Gác Sự Sự Vô Ngại Của Đức Di Lặc

Đi Vào Lầu Gác Sự Sự Vô Ngại Của Đức Di Lặc


Nguyễn Thế Đăng

sen

 

1/ Thấy pháp giới và được giải thoát vô ngại như pháp giới

Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.

Lúc ấy Bồ tát Di Lặc đến trước lầu gác khảy móng tay ra tiếng, cửa liền mở, bảo Thiện Tài đi vàoThiện Tài hoan hỷ đi vào lầu gác, cửa liền đóng lại”.

Đức Di Lặc bảo đồng tử Thiện Tài vào lầu gác Tỳ Lô Giá Na Trang Nghiêm Tạng để học Bồ tát hạnh, tu Bồ tát đạo bằng cách quán sát khắp cùng trong lầu gác. Sự quán sát này cho Thiện Tài thấy biết hay chứng ngộ được cảnh giới sự sự vô ngại, là sự chứng ngộ của các đại Bồ tát ở những địa cao nhất của Mười Địa Pháp thân.

 

Thiện Tài thấy trong lầu gác rộng vô lượng đồng hư khôngVô số báu làm đất, vô số cung điện, vô số cửa lớn, vô số cửa sổ, vô số thềm bậc, vô số lan can, vô số đường xá, tất cả đều bằng bảy báuVô số tràng, vô số phan, vô số lọng bao vòng khắp nơi, vô số chuỗi báu, vô số chuỗi chân châu, vô số chuỗi xích chân châu, vô số chuỗi sư tử châu, thòng rũ khắp nơi. Vô số bán nguyệt, vô số dải lụa, vô số lưới báu dùng để trang sức. Vô số chuông báu gió động thành tiếng, rải vô số hoa trời, vô số dải hoa trời báu, vô số lò hương các báu, treo vô số gương báu…

Lại thấy trong đó có vô lượng trăm ngàn lầu gác đẹp, đều nghiêm sức như trên. Mỗi lầu gác đều rộng rãi tráng lệ, đồng như hư không chẳng ngại nhau cũng chẳng tạp loạn nhau.

Thiện Tài ở một chỗ thấy tất cả chỗ. Nơi tất cả chỗ đều thấy như vậy.

Bấy giờ đồng tử Thiện Tài thấy lầu gác Tỳ Lô Giá Na Trang Nghiêm Tạng có mọi thứ cảnh giới tự tại chẳng thể nghĩ bàn như vậy, sanh rất hoan hỷ, hớn hở vô lượngthân tâm nhu nhuyến, lìa tất cả tưởng, trừ tất cả chướng, diệt tất cả lầm, chỗ thấy chẳng quên, chỗ nghe đều nhớ, chỗ nghĩ chẳng tạp, nhập vào cửa giải thoát vô ngại, vận dụng tâm vô ngại cùng khắp, thấy cùng khắp, kính lễ cùng khắp”.

Vào lầu gác Tỳ Lô Giá Na Trang Nghiêm Tạng đồng tử Thiện Tài thấy vô số sự vật trang nghiêmvô lượng lầu gác, mọi cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn như vậy. Lầu gác của Đức Di Lặc thì có giới hạn, có nơi chốn, có thời gian, thế thì tại sao có thể chứa vô sốvô số và vô số vật báuvô lượng lầu gác đẹp, cảnh giới trang nghiêm như vậy? Bởi vì lầu gác của ngài thì không có giới hạn “rộng vô lượng đồng như hư không”. Lầu gác của ngài mở ra và gồm chứa tất cả pháp giới: Một lầu gác chứa toàn bộ pháp giới, cái hữu hạn gồm chứa tất cả cái vô hạn. Cái một dung nhiếp cái tất cả và cái tất cả thì có vô số cái một không thể đếm hết. Đây là pháp giới sự sự vô ngại.

Mỗi lầu gác đều rộng rãi tráng lệ, đồng như hư không, chẳng ngại nhau cũng chẳng tạp loạn nhau”. Mỗi lầu gác đều đồng như hư không, đều vô hạn, nên đều chứa tất cả những lầu gác khác, đồng thời vẫn giữ nguyên hình dạng của mình nhưng chẳng ngại nhau cũng chẳng tạp loạn nhau, cho nên “vận dụng tâm vô ngại cùng khắp, thấy và kính lễ cùng khắp”.

Nhờ thấy biết được pháp giới sự sự vô ngại này mà đồng tử Thiện Tài “ở một chỗ thấy tất cả chỗ; nơi tất cả chỗ đều thấy như vậy”.

Cái thấy lầu gác Tỳ Lô Giá Na Trang Nghiêm Tạng khiến cho tâm thanh tịnh, được tịnh hóa, “rời tất cả tưởng, trừ tất cả chướng, diệt tất cả lầm”. Cái thấy trực tiếp pháp giới của chư Phật chính là cái thấy bản tâm xưa nay của chính mình, khuôn mặt xưa nay của chính mình, bởi vì “Tâm, Phật và chúng sanh; cả ba không sai khác” (Phẩm Dạ Ma cung kệ tán, thứ 20). Thế nên “chỗ thấy chẳng quên, chỗ nghe đều nhớ, chỗ nghĩ chẳng tạp, nhập môn vô ngại giải thoát, vận dụng tâm vô ngại cùng khắp, thấy cùng khắp, kính lễ cùng khắp”. Khi ấy không còn chủ thể thấy và đối tượng thấy, cho nên mới gọi là cùng khắp, là vô ngại giải thoát.

 

2/ Thân mình đầy khắp pháp giới

Vừa mới đảnh lễ, do thần lực của Bồ tát Di LặcThiện Tài tự thấy thân mình ở khắp trong tất cả các lầu gác, thấy đủ những cảnh giới tự tại chẳng thể nghĩ bàn.

Những là hoặc thấy Bồ tát Di Lặc lúc mới phát tâm tên hiệu như vậy, chủng tộc như vậy, thiện hữu khai ngộ khiến gieo trồng thiện căn như vậy, thọ mạng như vậy, ở kiếp như vậy, gặp Phật tại cõi nước như vậy, tu hành như vậy, phát nguyện như vậy, chư Phật Như Lai ấy, những chúng hộithọ mạngthời gian thân cận cúng dường đều thấy rõ. Hoặc thấy Bồ tát Di Lặc tối sơ chứng được từ tâm tam muội, từ đó đến nay hiệu là Từ Thị. Hoặc thấy Bồ tát Di Lặc tu những diệu hạnh thành mãn tất cả các ba la mật. Hoặc thấy đắc nhẫn, trụ địathành tựu thanh tịnh quốc độhộ trì Phật pháp, làm đại pháp sư, được vô sanh nhẫn. Hoặc thấy lúc ấy, chỗ ấy, đức Phật ấy thọ ký thành Phật cho Bồ tát Di Lặc.

Hoặc thấy Bồ tát làm Chuyển luân vương khuyên chúng sanh an trụ nơi mười thiện đạo. Hoặc thấy Bồ tát Di Lặc làm các Vua Trời thuyết pháp làm lợi ích cho chúng sanh… Hoặc thấy Bồ tát Di Lặc ca ngợi nói về công đức từ Sơ địa cho đến Thập địa. Hoặc thấy ngài trong trăm ngàn năm kinh hànhđọc tụng, chép các kinh điển, siêng cầu, quán sát vì đại chúng nói pháp…

 

Vận dụng tâm vô ngại cùng khắp, thấy cùng khắp, kính lễ cùng khắp, tự thấy thân mình ở khắp trong tất cả các lầu gác”: nhờ thần lực của Bồ tát Di Lặc, tâm của đồng tử Thiện Tài mở ra với pháp giới và hòa nhập với pháp giới. Sự tách biệt giữa thân tâm mình và pháp giới không còn, nghĩa là chấp ngã và chấp pháp không còn, nên tự thấy mình ở khắp pháp giới và thấy đủ những cảnh giới trong đó. Cái thấy lúc này là cái thấy của bản tâm và thấy đến đâu thì tâm chính là cái được thấy ấy.

Đồng tử Thiện Tài thấy quá khứ của Đức Di Lặc, phát tâm như vậy, gieo trồng thiện căn như vậy, gặp Phật tại cõi nước như vậy, tu hành như vậy, ở trong những chúng hội như vậy, cho đến được thọ ký như vậy, làm Bồ tát ở khắp để hóa độ chúng sanh ở khắp. Trong cái hiện tại của pháp giới, chứa đựng tất cả quá khứ của pháp giới. Đây là sự vô ngại của hiện tại và quá khứ.

 

3/ Sự sự vô ngại phản chiếu lẫn nhau

Hoặc nhập tam muội dùng lực phương tiện hiện các thần biến. Hoặc thấy Bồ tát Di Lặc cùng với các Bồ tát nhập biến hóa tam muội, mỗi vị nơi mỗi lỗ lông trên thân xuất ra tất cả mây thân biến hóa, hoặc xuất hiện mây thân thiên chúng, mây thân long chúng, mây thân dạ xoacàn thát bà… Hoặc thấy hiện ra mây thân Thanh VănĐộc GiácBồ tátNhư Lai. Hoặc hiện ra mây thân tất cả chúng sanh. Hoặc thấy xuất diệu âm ca ngợi mọi pháp môn của các Bồ tátcông đức của Bồ đề tâm… Hoặc lại ở trong những lỗ lông ấy thấy chư Như Lai có đại chúng vây quanh. Cũng thấy chỗ sanh, chủng tánhthân hìnhthọ mạngquốc độ, kiếp số, danh hiệuthuyết pháp lợi íchgiáo pháp trụ lâu mau, cho đến đạo tràngchúng hội của các Phật ấy đều thấy rõ cả.

Lại ở trong các lầu gác trong Trang Nghiêm Tạng này thấy một lầu gác cao rộng trang nghiêm tối thượng, trong đó thấy trọn ba ngàn thế giới, trăm ức bốn thiên hạ, trăm ức trời Đâu Suất Đà, mỗi mỗi nơi đều có Bồ tát Di Lặc giáng thần đản sanh. Thích, Phạm, Thiên vương ẳm bồng cung kínhBồ tát sơ sanh kinh hành bảy bước, quán sát mười phươngđại sư tử hống, hiện làm đồng tử, ở trong cung điện, dạo chơi trong vườn, vì cầu Nhất thiết trí mà xuất gia khổ hạnhthị hiện nhận cháo sữa, đi đến đạo trànghàng phục ma quânthành Đẳng Chánh Giácquán sát cây Bồ đềPhạm vương thỉnh chuyển pháp luân, lên cung điện trời thuyết pháp. Kiếp số thọ lượngchúng hội trang nghiêmnghiêm tịnh quốc độthành tựu hạnh nguyệnphương tiện giáo hóa thành thục chúng sanhphân chia xá lợitrụ trì giáo pháp, những sự việc chẳng đồng như vậy thảy đều thấy rõ.

Thiện Tài lại thấy thân mình ở chỗ chư Phật Như Lai ấy, cũng dự trong những chúng hội ấy, nhớ rõ tất cả Phật sự và thông đạt vô ngại”.

Đoạn này diễn tả cái thấy của đồng tử Thiện Tài đến mức độ sâu xa vi tế. Trong Kinh Hoa Nghiêm mức độ sâu xa vi tế này thường được diễn tả về mặt không gian là những “vi trần”, những hạt bụi nhỏ, và về mặt thời gian là “sát na”, những phần nhỏ của một khoảnh khắc. Trong mỗi lỗ lông trên thân các Bồ tát xuất hiện tất cả mây thân biến hóa. Trong mỗi lỗ lông hiện ra tất cả mây thân Phật, Bồ tátĐộc GiácThanh Văn và các công việc của các ngài.

Mây thân (thân vân) là những đám mây nơi xuất hiện thân vô số các bậc thánh phàm. Mây là những hạt nước rất nhỏ tụ lại, như thế một đám mây có vô số thân hiện ra. Các đám mây còn cho thấy tính chất biến hóa của chúng, “mây thân biến hóa”.

Trong vô số lầu gác trong lầu gác Tỳ Lô Giá Na Trang Nghiêm Tạng của Đức Di Lặc, mỗi lầu gác lại có một lầu gác trang nghiêm tối thượng, phản ánh sự nghiệp tương lai của vô số Đức Di Lặc trong ba ngàn thế giới. Đó là việc đản sanh, kinh hành bảy bước, quán sát mười phương và tuyên bố “Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn”, rồi sau đó lớn lên, từ bỏ cung điện đi đến đạo tràng thành Đẳng Chánh Giácđộ sanhnhập diệt, để lại giáo pháp… như Đức Phật Thích Ca.

Như thế, trong vô số lầu gác của Trang Nghiêm Tạng cũng chứa đựng, phản ánh vô số sự việc tương lai thành Phật của Đức Di Lặc. Trong hiện tại của lầu gác của Đức Di Lặc có chứa đựng, phản ánh việc tương lai thành Phật của ngài. Trong lầu gác này không chỉ chứa đựng vô số quá khứ đã qua, mà còn hội tụ cả vô số tương lai sẽ tới.

Hiện tại vô ngại với quá khứ và tương lai, thời gian vô ngại với thời gian. Và trong mỗi phần nhỏ của không gian lại có đủ ba thời hiện tạiquá khứ và tương lai, không gian vô ngại với thời gian.

 

Lại nghe trong tất cả các lầu gác, lưới, linh, chuông báu cùng các nhạc khí đều diễn xướng pháp âm vi diệu chẳng thể nghĩ bàn: hoặc nói Bồ tát phát Bồ đề tâm, hoặc nói tu hành các ba la mật, hoặc nói các nguyện, các địa, hoặc nói cung kính cúng dường Như Lai, hoặc nói trang nghiêm cõi nước chư Phật, hoặc nói chư Phật thuyết pháp sai khác. Tất cả Phật pháp như vậy đều nghe các âm ấy diễn xướng tỏ rõ.

Lại nghe xứ ấy có Bồ tát nghe pháp môn ấy, phát tâm Bồ đề, nơi kiếp ấy, cõi ấy, chỗ đức Phật ấy, trải qua bao nhiêu kiếp tu Bồ tát hạnh, sẽ thành Chánh Giácdanh hiệu như vậy, thọ lượng như vậy, quốc độ trang nghiêm như vậy, giáo hóa chúng sanh như vậy, nhập Niết bàn như vậy…

Thiện Tài nghe các pháp âm vi diệu chẳng thể nghĩ bàn như thế, thân tâm hoan hỷ nhu nhuyến liền được vô lượng môn tổng trì, các môn biện tài, các thiền, các nhẫn, các nguyện, các ba la mật, các thông, các minh và các giải thoát, các môn tam muội”.

 

Trong pháp giới, trong toàn bộ lầu gác của Đức Di Lặc, tất cả các sự vật ở tầm vĩ mô và tầm vi mô đều “diễn xướng tất cả Phật pháp”.

 

Lại thấy trong tất cả các gương báu đủ thứ hình tượng: những là chúng hội đạo tràng, chư Phật, chúng hội đạo tràng Bồ tátchúng hội đạo tràng Thanh VănĐộc Giác. Hoặc thấy những thế giới tịnh, uế, những thế giới có Phật, những thế giới không có Phật, những Tiểu, Trung, Đại thế giới, những thế giới lưới Đế Thích…

Ở trong những thế giới như vậy, thấy có vô số chúng đại Bồ tát hoặc đi hoặc ngồi làm nhiều sự nghiệp, hoặc khởi đại bi thương xót chúng sanh, hoặc tạo luận lợi ích chúng sanh, hoặc thọ trì, biên tụng, hoặc hỏi hoặc đáp, ba thời sám hốihồi hướngphát nguyện.

Thiện Tài lại thấy tất cả các cột báu phóng ra lưới đại quang minh ma ni vương, hoặc xanh, vàng, đỏ, trắng… hoặc làm thành màu tất cả quang minh…

Lại thấy chuỗi chân châu thường xuất sanh nước thơm đủ tám công đức. Thấy chuỗi lưu ly phóng trăm ngàn quang minh đồng thời chiếu sáng.

Lại thấy tượng nam, nữ, tượng Thích, Phạm, Hộ thế, trời, rồng dạ xoa…Thanh Văn, Độc GiácBồ tát. Tất cả những sắc tượng trên đây đều chắp tay khom mình đánh lễ”.

Các sự vật trong lầu gác đều tỏa ánh sáng, hương thơm… và chúng phản chiếu lẫn nhau như những tấm gương, tạo nên thế giới “lưới trời Đế Thích” làm bằng những hạt ngọc phản chiếu lẫn nhau.

Mỗi sự vật là một tấm gương báu, trong đó có phản chiếu tất cả hiện hữu của vũ trụ, thánh phàm. Và mỗi tấm gương lại phản chiếu tất cả các tấm gương khác, đó là một vũ trụ “trùng trùng vô ngại”.

Khi Thiện Tài “thấy cùng khắp, kính lễ cùng khắp” thì “tất cả những sắc tượng trên đây cũng đồng thời chắp tay đảnh lễ”.

 

4/ Huyễn trí thấy như huyễn như mộng

Bấy giờ các thiện tri thức mà Bồ tát Di Lặc đã từng kính thờ, thân cận, cúng dường bảo Thiện Tài rằng: Thiện lai đồng tử! Ngươi hãy quán sát những sự chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát Di Lặc chớ có chán mỏi.

Lúc đó do được sức ghi nhớ chẳng quên, do được mắt thanh tịnh thấy mười phương, do được trí vô ngại khéo quán sát, do được trí tự tại của các Bồ tát, do được cái hiểu rộng lớn của các Bồ tát đã nhập trí địa, nên Thiện Tài ở trong mỗi vật của tất cả lầu gác đều thấy vô lượng cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn như vậy.

Như người nằm mộng thấy những cảnh vật, khi thấy thức dậy bèn biết là cảnh mộng, nhưng có thể nhớ rõ không quên mất. Cũng vậy, nhờ thần lực gia trì của Bồ tát Di Lặc, do biết các pháp trong ba cõi đều như mộng, vì diệt được các tưởng hẹp kém của chúng sanh, vì được hiểu biết rộng lớn vô ngại, vì trụ cảnh giới thù thắng của các Bồ tát, vì nhập trí phương tiện chẳng nghĩ bàn, nên Thiện Tài thấy được cảnh giới tự tại như vậy.

Như người sắp chết, thấy tướng thọ báo tùy theo nghiệp mình. Người gây nghiệp ác thì thấy tất cả cảnh giới khổ nơi địa ngụcngạ quỷ, súc sanh… Người làm nghiệp thiện thì thấy tất cả cung điện cõi trời trang nghiêm vô lượng thiên chúngthiên nữ tốt đẹp. Thân tuy chưa chết nhưng do nghiệp lực thấy các sự ấy. Cũng vậy, do lực chẳng nghĩ bàn của Bồ tát nghiệp nên Thiện Tài được thấy tất cả cảnh giới trang nghiêm.

Như có người bị quỷ nhiếp trì thấy các sự việc, tùy có người hỏi đều đáp được cả. Cũng vậy, do trí huệ Bồ tát nhiếp trì nên Thiện Tài được thấy tất cả sự trang nghiêm, nếu có ai hỏi đều đáp được cả”.

Hai sự tích tập trí huệ và công đức của đồng tử Thiện Tài đã gần trọn vẹn, nên được mắt thanh tịnh thấy khắp mười phương, trí vô ngại khéo quán sát nên thấy vô lượng cảnh giới trang nghiêm chẳng thể nghĩ bàn. Đây là nhờ sự tu hành của đồng tử, lại được nhờ thần lực gia trì của Bồ tát Di Lặc.

Ở trên nói đồng tử “nhập vào cửa giải thoát vô ngại, vận dụng tâm vô ngại cùng khắp cho nên thấy những cảnh giới tự tại chẳng nghĩ bàn”. Cảnh giới tự tại thì không những trang nghiêm mà còn là tự tạigiải thoát. Thấy tất cả nhưng đồng thời giải thoát khỏi tất cả cái được thấy. Đó là “Vì biết những pháp trong ba cõi đều như mộng”. “Thấy được cảnh giới tự tại như vậy” vì biết ba cõi duy tâm, muôn pháp duy thức, nên đều như huyễn như mộng.

Tâm thanh tịnh thì thấy các cảnh giới là thanh tịnhÝ nghĩa của thanh tịnh là giải thoátthanh tịnh bởi vì như huyễn như mộng. Như huyễn như mộng chính là sự thanh tịnh tự tại giải thoát.

Đồng tử thấy được như vậy là “do lực chẳng nghĩ bàn của Bồ tát nghiệp”. Nghiệp tâm như thế nào thì thấy cảnh giới như thế ấy. Nghiệp tâm của Bồ tát, qua hai sự tích tập trí huệ và công đức đã thanh tịnh, đây là Chánh báoBồ tát bèn thấy được cảnh giới chung quanh đều thanh tịnh, đây là Y báo.

 

Như có người bị rồng nhiếp trì, tự cho mình là rồng rồi vào Long cung, trong một ít thời gian tự cho là đã trải qua nhiều ngày, tháng, năm. Cũng vậy, do trụ vào tưởng trí huệ của Bồ tát, do Bồ tát Di Lặc gia trì, nên trong một ít thời gian mà Thiện Tài cho là vô lượng kiếp.

Như cung Phạm thiên tên Trang Nghiêm tạng trong đó trọn thấy hiện tất cả sự vật trong ba ngàn thế giới chẳng tạp loạn nhau. Cũng vậy, trong lầu gác này Thiện Tài thấy khắp tất cả cảnh giới trang nghiêm sai khác chẳng tạp loạn nhau.

Như tỳ kheo nhập biến xứ định khi đi đứng ngồi nằm, tùy định mình nhập mà cảnh giới ấy hiện tiền. Cũng vậy, Thiện Tài nhập vào lầu gác này, tất cả cảnh giới đều hiện rõ.

Như có người ở trong hư không thấy thành Càn thát bà đủ sự trang nghiêm đều thấy biết rõ không chướng ngại.

Như cung điện dạ xoa và cung điện loài người cùng ở một chỗ mà chẳng tạp loạn nhau, mỗi bên theo nghiệp mình mà thấy khác nhau.

Như trong biển lớn tất cả sắc tượng ba ngàn thế giới đều thấy trong đó.

Như nhà huyễn thuật, do nơi lực huyễn hiện những sự huyễn. Cũng vậy, do lực oai thần của Bồ tát Di Lặc và do lực huyễn trí chẳng nghĩ bàn, do có thể dùng huyễn trí biết các pháp, do được lực tự tại của các Bồ tát, nên Thiện Tài thấy tất cả cảnh giới trang nghiêm tự tại trong lầu gác”.

Khi một người bị rồng nhiếp trì, nghĩa là tâm thức người ấy chuyển thành tâm thức loài rồng thì thời gian đối với người ấy thay đổi: “một ít thời gian mà thấy là đã trải qua nhiều ngày, tháng, năm”. Điều này chứng minh cho sự thật “ba cõi duy tâm, muôn pháp duy thức”. Cùng một thời gian không gian, “cung điện dạ xoa và cung điện loài người cùng ở một chỗ”, nhưng loài dạ xoa và loài người thấy khác nhau, “mỗi bên theo nghiệp mình mà thấy khác nhau”. Theo nghiệp của mình là theo nghiệp của tâm thức mình. Tâm thức khác nhau tạo thành những cảnh giới khác nhau, không gian thời gian khác nhau.

Trong lầu gác hiện tất cả cảnh giới trang nghiêm tự tại của toàn bộ pháp giới. Để thấy được như vậy phải có nghiệp Bồ tát: được thần lực của Đức Di Lặc gia trì, có lực huyễn trí để biết các pháp, huyễn trí ấy là lực tự tại của hàng Bồ tátTóm lại, vị Bồ tát ấy phải có đầy đủ hai sự tích tập trí huệ và công đức.

Trí huệ là trí thấy biết như huyễn như mộng và công đức để gặp được và được sự gia trì của Bồ tát Di Lặc.

Những thí dụ trên đều nói đến như mộng như huyễn của cảnh giới và để thấy cảnh giới trang nghiêm như mộng như huyễn ấy phải “biết những pháp trong ba cõi như mộng”, phải có “huyễn trí và lực huyễn trí”.

Cực điểm của trí huệ Bồ tát là trí huệ ‘biết duy tâm tạo, nên như mộng như huyễn’, như Kinh Hoa Nghiêm, phẩm Dạ Ma cung kệ tán nói:

Nếu người biết tâm hành

Tạo khắp các thế gian

Người này bèn thấy Phật.

Rõ Phật chân thật tánh

Tâm chẳng trụ nơi thân

Thân chẳng trụ nơi tâm

Mà làm được Phật sự.

Nếu người muốn rõ biết

Tất cả Phật ba đời

Phải quán tánh pháp giới

Tất cả duy tâm tạo.

 

Bấy giờ Bồ tát Di Lặc nhiếp thần lực, vào trong lầu gác gảy móng tay ra tiếng, bảo Thiện Tài rằng:

Thiện nam tử, hãy dậy! Pháp tánh như vậy. Đây là những tướng của trí Bồ tát biết các pháp nhân duyên tụ tập mà hiện khởi. Tự tánh như vậy, như huyễn, như mộng, như bóng, như hình, đều trọn chẳng thành tựu.

Nghe tiếng gảy móng tay, Thiện Tài liền từ tam muội dậy”.

Sự phóng chiếu của tâm khiến hiện thành pháp giới thì như huyễn như mộng. Sự phóng chiếu “thần biến” của tâm, dù tâm thanh tịnh nhất, khiến hiện thành pháp giới trang nghiêm thanh tịnh nhất, cũng đều như huyễn như mộng. Như huyễn như mộng chính là sự thanh tịnh rốt ráo của tâm. Thế nên Kinh nói, “Pháp tánh hay tự tánh là như huyễn, như mộng, như bóng, như hình, đều trọn chẳng thành tựu”.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 117)
Trong cuộc sống hiện đại, chúng ta gặp phải nhiều áp lực và lo lắng từ công việc, cuộc sống xã hội, về giao tiếp theo truyền thống và trên mạng xã hội.
(Xem: 141)
Là Phật tử, chúng ta thường được nghe giảng “đạo Phật là đạo của từ bi và trí tuệ”, nhưng ý nghĩa thật sự của đạo Phật là gì?
(Xem: 158)
Trong cuộc sống đời thường, mỗi một cá nhân chúng ta thường không để ý đến hiệu quả của lòng thương trong nhiều trường hợp ứng xử hoặc trong nhiều công việc thường ngày.
(Xem: 166)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(Xem: 186)
Ở đây, này Hiền giả, vị Thánh đệ tử thành tựu lòng tinbất động đối với Đức Phật… đối với Pháp…
(Xem: 233)
húng ta có thân này là do nghiệp. Nghiệp được hiểu đơn giản nhất, đời thường nhất là thói quen.
(Xem: 221)
Trong chùa có một anh câm. Không ai nhớ anh ta đến chùa từ bao giờ, vả lại cũng không mấy người để ý đến anh ta.
(Xem: 233)
Danh và thực trong đời sống xã hội là nói cái tên gọi và thực chất, chức danh và khả năng, danh vị và tài đức.
(Xem: 225)
Theo giáo thuyết nhà Phật, quán tưởng là tập trung tư tưởng để quan sát, phân tích và suy nghiệm một vấn đề, giúp cho thân an và tâm không loạn động, cũng như được chánh niệm.
(Xem: 264)
Theo Phật giáo, hồi hướng được làm với lòng ước nguyện để chuyển đổi những thiện hành trở thành nguyên nhân để giúp một người đạt được toàn giác.
(Xem: 254)
Như người bị trúng tên độc là một trong những ảnh dụ gây ấn tượng mạnh mẽ về những việc cần làm ngay.
(Xem: 211)
Là một công dân, bạn có thể trở nên dễ phục tùng các mệnh lệnh, sẵn sàng nhượng bộ các quyền của bạn hơn vì những lời hứa mơ hồ về sự an toàn.
(Xem: 159)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 187)
Đã xuất gia thì không ai là người ác cả, ác Tỷ kheo dùng để chỉ cho những người xuất gia tiến bộ chậm, chưa chuyển hóa các tập khí xấu ác của chính mình.
(Xem: 209)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 295)
Hiện tại chính là thời kỳ mạt pháp, pháp đã đến đoạn cuối của nó. Phần đông không chú trọng vào sự tu hành,
(Xem: 306)
Hôm nọ lúc Đức Thế Tôn đang giảng dạy ở tu viện Kỳ Viên, có một ông say rượu loạng quạng đi vô và nói "Thế Tôn, Con muốn xuất gia đi tu".
(Xem: 386)
Bốn mươi lăm năm thuyết pháp, Đức Phật đã dày công thiết lập nên lộ trình TU CHỨNG duy nhất, là VĂN - TƯ - TU.
(Xem: 360)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 343)
Chữ “tu” có nghĩa là “sửa đổi” hay “thay đổi”. Sửa chữa những hành vi bất thiện sai lầm để bản thân trở nên tốt đẹp và lương thiện hơn.
(Xem: 356)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc.
(Xem: 611)
Chết an lànhmong mỏi to lớn và sau cùng của một kiếp nhân sinh. Ngoài đời hằng mong sinh thuận tử an.
(Xem: 580)
Pháp giớivũ trụ được các bậc giác ngộ chứng ngộ.
(Xem: 853)
Một số bài pháp hay nhất mà tôi từng nghe là những bài pháp của Đức Phật.
(Xem: 449)
Huyền thoại truyền thống về cuộc đơi Đức Phật kể lại rằng trong suốt thời niên thiếu và vào tuổi trưởng thành, thái tử Siddhattha
(Xem: 681)
Xã hội ngày nay, đời sống hiện đại phần nào làm con người bị cuốn vào guồng xoay vật chất như “thiêu thân”.
(Xem: 500)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 487)
Ái là tâm yêu thích. Người đời thì yêu thích nhiều thứ nên biển ái mênh mông.
(Xem: 388)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 505)
Thiền sư Sawaki luôn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc hành thiền hơn là học kinh sách hay tham công án.
(Xem: 471)
Cách đây hơn 2500 năm trước, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng dự ngôn
(Xem: 655)
“Sinh ra, tồn tại, suy biến và hoại diệt trong từng thoáng chốc. Thế gian được thấy như thế...”
(Xem: 452)
Một trong những giả định đằng sau Phật giáo đương đại (Contemporary Buddhism) là 'thông điệp' của Phật giáo có thể truyền đến...
(Xem: 853)
Con đường Bồ tát gồm hai sự tích tập trí huệ và tích tập công đức. Hai sự tích tập này đầy đủ thì được gọi là Lưỡng Túc Tôn, bậc hai sự đầy đủ, tức là một vị Phật.
(Xem: 577)
Có người nói thế giới này hư hoại, thật ra thế giới không có hư hoại. Vậy thì cái gì hư hoại?
(Xem: 580)
Buông bỏ là một hạnh lành, không phải người nào cũng làm được. Xả bỏ được bao nhiêu thì nhẹ nhàng và thong dong bấy nhiêu.
(Xem: 974)
Nhân dịp Năm Mới, tôi xin cảm ơn tất cả những người đã gửi cho tôi những lời chúc tốt đẹp, và tôi xin gửi lời chào đến tất cả chư Huynh Đệ trên khắp thế giới.
(Xem: 685)
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, vị thủy tổ đầu tiên về nguồn gốc của dân tộc Việt Nam là...
(Xem: 575)
Theo truyền thuyết, rồng là loài vật linh thiêng, có thần thông, có khả năng làm mưa, phun ra khói, lửa, thăng, giáng, ẩn, hiện, biến hóa lớn nhỏ một cách tự tại.
(Xem: 878)
Trí tuệ giống như ánh sáng, và có ba cấp độ:
(Xem: 548)
Chúng ta thường nghe dặn dò rằng, hãy tu đi, đừng nói nhiều, đừng lý luận nhiều, đừng dựa vào chữ nghĩa biện biệt sẽ dễ loạn tâm
(Xem: 679)
Trước khi tìm hiểu chủ đề “Nương thuyền Bát nhã là gì? ”, chúng ta cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của từ Bát nhã.
(Xem: 651)
Từ “Phật” (Buddha) đã được biết đến và lưu truyền trước khi Đức Phật xuất hiệnẤn Độ.
(Xem: 628)
Đức Phật, Ngài là con người, bằng xương bằng thịt, như bao nhiêu con người khác...nhưng Ngài là một con người giác ngộ, tỉnh thức...
(Xem: 641)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 640)
Trời có lúc nắng lúc mưa, người có lúc may mắn hoặc xui xẻo. Nhưng không có cái gì tự dưng sinh ra hay mất đi, tất cả đều có lý do của do của nó.
(Xem: 535)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 709)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1022)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1200)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant