Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tâm Sanh Thảy Thảy Pháp Sanh, Tâm Diệt Thảy Thảy Pháp Diệt.

15 Tháng Sáu 202216:20(Xem: 2138)
Tâm Sanh Thảy Thảy Pháp Sanh, Tâm Diệt Thảy Thảy Pháp Diệt.

Tâm Sanh Thảy Thảy Pháp Sanh, Tâm Diệt Thảy Thảy Pháp Diệt.

Nguyễn Thế Đăng


Tâm Sanh Thảy Thảy Pháp Sanh



1/ Có thế giới bởi vì có tâm

Câu lấy làm nhan đề trên ở trong Luận Đại Thừa Khởi Tín của Bồ tát Mã Minh (Asvaghosha), thế kỷ thứ nhất Tây lịch. Câu này thường được các Thiền sư và các hành giả nhắc đến nhiều trên con đường tu tâm.

Tu tâm là tìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm. Ngài Mã Minh nói trong Luận Khởi Tín:

Bởi vì tất cả pháp xưa nay duy chỉ là tâm, thật không có niệm (vô niệm, không có tư tưởng). Nhưng do tâm vọng động, bất giác khởi niệm, thấy các cảnh giới, thế nên nói là vô minh. Tánh của tâm vốn chẳng khởi, đây là Đại trí huệ quang minh tạng”.

Bản tánh của tâm vốn vô niệm, thế nên thực hành Phật pháp là để đạt đến bản tâm vô niệm này:

Thế nên trong các khế kinh dạy rằng: Nếu có chúng sanh quán vô niệm tức là đang hướng đến trí Phật” (Luận Khởi Tín).

Khi tâm vô niệm thì cảnh cũng vô niệm, đó là giải thoáttâm cảnh đều Không.

Lại nữa, hiển thị từ môn sanh diệt tức là nhập môn Chân Như. Nghĩa là, truy tìm năm uẩn, sắc và tâm cùng cảnh giới sáu trần rốt ráo là vô niệm.” (Luận Khởi Tín)

Khi tâm diệt thì thảy thảy pháp diệt, tất cả thế giới sanh tử diệt. Đức Phật nói trong Kinh RohitassaTương Ưng Bộ I:

Chính trong cái thân cao hơn một thước này, với tri giác và trí năng của nó, ta tuyên bố có thế giới, sự phát sanh của thế giới, sự chấm dứt của thế giới, và con đường thực hành đưa đến sự chấm dứt của thế giới”.

Có thế giới, sự phát sanh của thế giới, đó là “tâm sanh thì thảy thảy pháp sanh”. Sự chấm dứt của thế giới, đó là “tâm diệt thì thảy thảy pháp diệt”. Và con đường thực hành đưa đến sự chấm dứt của thế giới là con đường ngộ, nhập bản tánh vô niệm của tâm.

 

2/ Bản tánh của niệm hay tư tưởng

Mục đích của tất cả các con đường Phật giáo là đưa con người trở về nguồn tâm, về bản tánh của tâm vốn vô niệm của chính mỗi người. Nguồn tâm, bản tánh của tâm là tánh Không và tánh sáng. Đó là thật nghĩa của vô niệm.

Chúng sanh lạc vào sanh tử khó có ngày ra khỏi bởi vì họ lạc vào những khởi niệm của chính họ mà không biết cội nguồn của mọi khởi niệm là bản tánh của tâm vốn vô niệm. Nhưng một Bồ tát dù đã đạt đến các địa của Pháp thân vô niệm thì vẫn phải hoạt động ở đời, tự giác-giác tha, nghĩa là vẫn phải dùng hoạt động khởi niệm của tâm. Cùng làm việc ở đời như nhau nhưng sự khác biệt căn bản là Bồ tát ấy biết bản tánh của mọi niệm khởi là tánh Không và tánh sáng. Nghĩa là biết các niệm không khác với cội nguồn vô niệm từ đó chúng khỏi sanh: các niệm là vô niệm.

 

Lục Tổ Huệ Năng không nói vô niệm là không có niệm nào cả mà “nơi niệm mà vô niệm, nơi tướng mà lìa tướng”:

Vô niệm là nơi niệm mà vô niệmVô tướng là nơi tướng mà lìa tướng... Người mê bám vào pháp tướngchấp Nhất hạnh tam muội là thường ngồi chẳng động, vọng niệm chẳng khởi nơi tâm. Nếu hiểu như vậy là đồng với loài vô tình, trở lại thành cái nhân duyên ngăn chướng đạo. Thiện tri thức! Đạo vốn thông lưu, sao lại làm cho ngưng trệ”.

Karmapa thứ Chín Wangchug Dorje (1556-1603) nói trong tác phẩm của ngài The Mahamudra eliminating the darkness of ignorance (Thiền xóa tan bóng tối vô minhThiện Tri Thức, 2001):

Hơn nữa, tư tưởng ngay khi đang khởi thì tự thân nó là tánh Không sáng tỏ. Khi con chứng ngộ hay có được sự quán chiếu này, bấy giờ con đã nhận ra bản tánh của tư tưởng.

Không có chút khác biệt dù nhỏ nhất nào giữa trạng thái vô niệm và trạng thái quán chiếu thấy rõ rằng những tư tưởng chuyển động, tâm an định và bản tánh vô niệm của những tư tưởng, cả ba đều trống không, sáng tỏ và rạng ngời. Cho hai trạng thái đó khác biệt là một nhận xét của tâm thức chưa nhận ra chúng.

Trước kia, khi con chưa nhận ra bản tánh của những tư tưởng, con không thể đem chúng vào trong thiền định của con. Đó là vô minh. Nhưng giờ đây con đã nhận biết chúng, con có thể thiền định về chính những tư tưởng và như thế chúng trở thành tánh giác nguyên sơ. Bây giờ con có thể lấy những tư tưởng làm căn bản của thiền định”.

Lục Tổ Huệ Năng nói Hóa thân là sự biến hóa ra các tư tưởng từ Pháp thân tánh Không, “bản tánh vốn như hư không”. Biến hóa nên là như huyễnnhư huyễn đồng với tánh Không. Hơn nữa, sự biến hóa ấy là sự biến hóa của Tự tánh, của Bản tâm vô niệm, nên gọi là Tự tánh Hóa thân:

Sao gọi là Ngàn Trăm Ức Hóa Thân? Nếu chẳng nghĩ muôn pháp thì bản tánh vốn như hư không. Một niệm nghĩ lường gọi là biến hóa. Nghĩ lường việc ác thì hóa làm địa ngục, nghĩ lường việc thiện thì hóa làm thiên đườngđộc hại hóa làm rồng rắn, từ bi hóa làm Bồ táttrí huệ hóa làm cõi trên, ngu si hóa làm phương dưới. Tự tánh mình biến hóa rất nhiều, người mê chẳng thể tỉnh giácniệm niệm khởi ác, thường hành đường ác. Xoay về một niệm thiện thì trí huệ liền sanh, ấy gọi là Tự tánh Hóa thân Phật” (Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Sám Hối)

 

Trong Kinh Phật địa, nói Diệu quan sát trí và Thành sở tác trí là Hóa thân của Pháp thân Đại viên cảnh trí vô niệm, và hóa thân này hoạt động mạnh mẽ vô tận. Ở đây chỉ trích ra một đoạn (trong mười đoạn) nói về Diệu quan sát trí của Phật:

Như trong thế giới có các núi vua cao lớn hiển hiệndiệu quan sát trí của Phật cũng như vậy, có chư Phật, Bồ tát oai lực diễn nói giáo pháp sâu xa rộng lớn”.

Thành sở tác trí thì gồm cả thân ngữ ý của Phật:

Như thân nghiệp của chúng sanh chuyên cần gắng sức tìm cầu quay cuồng theo các thứ lợi danh, giàu có, công việc. Thành sở tác trí của Như Lai cũng như vậy, thân hóa nghiệp chuyên cần, do đó thị hiện thảy thảy các việc như công xảo, bẻ dẹp tất cả phiền não kiêu mạn của chúng sanh, dùng lực phương tiện thiện xảo dẫn dắt chúng sanh khiến nhập thánh giáo, thành thục giải thoát”.

Về ngữ của Phật:

Lại như ngữ nghiệp phương tiện của chúng sanh, do đó chúng sanh chỉ bảo cho nhau công việc, chê ác khen thiện, cho đến ra lệnh. Thành sở tác trí của Như Lai cũng như vậy, khởi ra phương tiện ngữ nghiệp biến hóa, do đó Như Lai lập ra chỗ học chân chánh, chê trách các buông lung phóng dật, khen ngợi sự chẳng phóng dật. Lại thành lập hạng tùy tín hành và tùy pháp hành…, dùng lực phương tiện thiện xảo ấy dẫn dắt các chúng sanh khiến vào thánh giáothành thục giải thoát”.

Về ý của Phật:

Lại như ý nghiệp tạo tác của chúng sanh, do đó chúng sanh tạo tác thảy thảy các nghiệp được sanh khởi. Ý hóa nghiệp tạo tác của thành sở tác trí của Như Lai cũng như vậy, do đó Như Lai quan sát các hành động của chúng sanh, làm và không làm, hoặc được hoặc mất, khiến cho lấy bỏ mà tạo tác các đối trị, dùng lực phương tiện thiện xảo ấy dẫn dắt chúng sanh khiến vào thánh giáothành thục giải thoát”.

Hoạt động để giải thoát cho chúng sanh của Phật qua diệu quan sát trí và thành sở tác trí là phủ khắp, tác động đến tất cả chúng sanh của ba cõi sanh tử.

 

3/ Sanh mà không sanh, niệm mà vô niệm

Như vậy không nên nghĩ một cách đơn giản rằng vô niệm là không có tư tưởng, không có ý nghĩ, như một loại định bất độngVô niệm là nền tảng căn bản cho mọi khởi niệm, cho mọi hóa thân làm việc.

Một người tu Bồ tát đạo là biết sử dụng niệm, tự tại với niệm, và vô niệm thì vượt khỏi động tĩnh, sanh diệt, tăng giảm, dơ sạch…, nghĩa là niệm đồng với vô niệm, chính là tánh Không và tánh sáng.

Lục Tổ Huệ Năng nói với Sư Pháp Hải:

“Niệm trước chẳng sanh tức tâm

Niệm sau chẳng diệt tức Phật”.

Không sanh mà chẳng diệt, chứ không phải không sanh mà tịch diệtvô vi.

 

Dza Patrul Rinpoche (1808-1887), một vị Thầy Dzogchen Tây Tạng, giảng về Ba Lời Tuyên Bố Đánh Vào Những Điểm Thiết Yếu của Garab Dorje, trong cuốn The Golden Letters (Những Chữ Vàng, nxb Thiện Tri Thức, 2002).

Khi nói về sự khởi niệm, để giảng Lời Tuyên bố thứ Ba của Garab Dorje, ngài đã viết:

Vào lúc đó, bất cứ tham hay sân, vui hay buồn,

Bất cứ tư tưởng nào lan man khởi lên,

Trong trạng thái nhận biết chúng, người ta

không theo chúng.

Từ đó người ta nắm giữ sự nhận biết Pháp

  thân về mặt giải thoát,

Bấy giờ giống như vẽ hình trên mặt nước,

Không có cách hở giữa tự-sanh khởi

 (của những tư tưởng) và tự-giải thoát của chúng.

Bất cứ niệm nào khởi lên (trong tâm) đều thành

     thực phẩm cho tánh Giác trống không trần trụi;

Khi nào những chuyển động (của tư tưởng xảy ra),

 chúng biểu hiện năng lực sáng tạo của pháp thân;

Không để lại dấu vết, chúng tự-tịnh hóa.

A-la-la! 

Thiền sư Minh Châu Hương Hải (1629 – 1715) có bài kệ:

Nhạn qua trời không

Ảnh chìm nước lạnh

Nhạn không có ý để dấu

Nước không có tâm giữ ảnh.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13678)
Bà Chín hồi nào đến giờ vẫn vậy, vẫn quạnh quẽ sống mình ên trong cái chòi lá bên một ao sen trắng. Cả làng chỉ biết bà là người xứ khác trôi giạt đến, cách nay đã ba mươi năm.
(Xem: 14674)
Sau khi nói chuyện với cô bé tôi ra về. Wendy nói cô bé rất vui, và đúng là tôi thấy nhẹ nhõm hơn nhiều.
(Xem: 14914)
Từ ngàn xưa, Ấn Ðộ đã là thánh địa đối với người con Phật. Chính từ vùng đất lịch sử này mà những danh tăng Pháp Hiển, Huyền Trang, Nghĩa Tịnh... đã trở thành bất tử...
(Xem: 14982)
Chú Tư nhai với trâu, nhai một hồi thấy đúng là mình đang nhai cỏ; chú vừa nhai cỏ vừa ngước mắt nhìn trời xa xăm...
(Xem: 17844)
Có đôi lúc giữa đêm tôi tự hỏi mình có già cỗi quá không? Và mình đã thu lượm được những gì trên con đường mình đã chọn?
(Xem: 15991)
Khi ra đời, một cây bút chì luôn thắc mắc không biết cuộc sống bên ngoài xưởng làm bút chì sẽ ra sao bởi thỉnh thoảng nó nghe những người thợ làm bút chì nói chuyện với nhau.
(Xem: 15805)
Thủy tiên nhỏ bé, xinh xắn với hương thơm cao sang, cánh hoa trắng muốt, mọc từng chùm trên củ như loại hành tây. Những chiếc lá mịn màng đang vươn mình ra ánh sáng.
(Xem: 17426)
Cứ ngỡ hoa được thả từ đâu đó trên không trung xuống rồi đậu lên hàng rào. Hoa không thành chùm lớn, cách nhau vừa tầm xa, như họa sĩ thiên nhiên...
(Xem: 16545)
Mỗi năm, vào ngày trăng tròn tháng tư, chúng ta cung kính, hân hoan đón nhận Đấng Giác Ngộ ra đời. Đó là Đức Phật lịch sử, Đức Phật đã mang hình người để đến với chúng ta.
(Xem: 15861)
Trong các chùa thuộc Bắc tông, thường treo bức tranh một hành giả dữ tướng, cao to, quắc thước, râu hùm, hàm én, mắt lóe kỳ quang, mình vận cà sa, vai quảy một chiếc dép...
(Xem: 13395)
Cơn nắng giao mùa đã bắt đầu rực sáng; những tàng lá non xanh đã trở nên đậm sắc hơn; những cây phượng hồng vẫn còn nở rực; đằng xa trong vườn nhà ai...
(Xem: 14181)
Một chàng trai bị lạc giữa sa mạc rộng lớn. Anh mệt lả và khát khô cổ, sẵn sàng đánh đổi bất cứ cái gì chỉ để lấy một ngụm nước mát.
(Xem: 12470)
Thuyết pháp độ sinh suốt 49 năm, bỗng một ngày nhìn lại, thấy mình chưa nói một lời. Bất thuyết thị Phật thuyết! Chung thân ngôn, vị thường ngôn!
(Xem: 12952)
Nhiều năm thăng trầm trong cuộc đời, phần lớn chúng ta đều ý thức rằng những hấp dẫn lực bên ngoài sớm muộn gì cũng sẽ vỡ tan, chỉ có một cõi lòng bình anhạnh phúc...
(Xem: 16621)
Một người thanh niên đang ngồi trên một tảng đá gần nhà vào một ngày nọ. Một nhóm những người thông tuệ từ ngôi làng của anh ta đi ngang qua...
(Xem: 28794)
Một con cá nhỏ bơi lội tung tăng, thả nổi và ngoi lên mặt nước ngắm bầu trời xanh. Một lượn sóng ùa tới, nó đùa giỡn ngụp lặn với sóng...
(Xem: 19376)
Có một vị nam cư sĩ mỗi ngày thường hái hoa tươi trong vườn nhà mình đem đến chùa chí thành dâng cúng Phật. Một hôm, khi đem hoa đến điện Phật...
(Xem: 14963)
Con tin có Phật trên đời Phật luôn hiện hữu không rời chúng sanh Nhìn vào sự việc chung quanh Thật là kỳ diệu phải nhanh tu hành
(Xem: 11351)
Có một sự nhất quán, xuyên suốt trong lời dạy hướng dẫn kỹ năng thiền định của đức Phật, dù là Tứ niệm xứ (Satipatthàna) và Thân hành niệm (Kàyagatàsati)...
(Xem: 13624)
Mỗi buổi sáng ngày Tết nguyên đán, có một vị khách viễn xứ về thăm quê nhà. Vị khách đã đến chùa Kim Liên (Nghi Tàm, Hà Nội) lễ Phật, vãn cảnh chùa.
(Xem: 13771)
Có một người trung niên sau khi xuất gia trở thành một vị cao tăng, trụ trì một tu viện cách rất xa gia đình. Rất nhiều người ngưỡng mộ danh đức của ngài...
(Xem: 12864)
Thuở xa xưa có một chàng trai con của một vị Bà la môn (giai cấp "tu sĩ" cao nhất ở Ấn Độ) sống dưới triều đại vua Pasenadi, thuộc vương quốc Kosala.
(Xem: 19820)
Hạnh phúc chân chính liên quan đến tình cảm và trí huệ nhiều hơn. Hạnh phúc lệ thuộc vào lạc thú vật chất không vững bền, nay có mai không.
(Xem: 14865)
Ba chú tiểu dáo dác nhìn bốn bề xao động trong cặp mắt nai ngơ ngác. Dọc theo lề đường, ánh đèn xanh đỏ lập lòe về đêm...
(Xem: 13258)
Bóng con bé chạy dài theo bóng nắng. Thoắt cái nó đã mất hút sau đám ô môi rậm rạp. Vị thầy chỉ đi theo một đoạn. Nhìn những dấu chân nhỏ nhắn...
(Xem: 13858)
Rõ ràng, ở đời không có cái gì là toàn thiện, hoàn mỹ tuyệt đối cả. Được cái này thì mất cái kia là đặc tính chung nhất của vạn sự vạn vật.
(Xem: 11923)
Một người phạm hạnh thì giống như một viên bảo ngọc, như một tấm pha lê sáng trong, dù có đem bùn đen bôi lên cũng không thể nào làm dơ uế được.
(Xem: 14405)
Khi gặp mình mua 1000 đồng, trong bụng bà ấy được vui một chút, đó cũng là cách mình làm phước. Mình đem vui lại cho người khác, mình cũng sẽ được vui lây...
(Xem: 26856)
Ngày nay, tình yêu đã được hằng kho, hằng kho sách vở, báo chí, phim ảnh ca tụng như là một thứ “linh thiêng, thần thánh”, một nguồn hạnh phúc, hoan lạc đẹp nhất của kiếp người.
(Xem: 14092)
Nắng mùa hè ấm áp, giúp cho vườn hoa ở Canada cảnh sắc rực rỡ. Một hồ sen điểm vài cánh hoa hiếm quí tươi nhuần thanh khiết, làm ấm lòng người thưởng ngoạn.
(Xem: 18648)
Tùy duyên trong cuộc sống là sống mà không câu nệchấp trước bất cứ một sự việc nào dù đó là thuận hay nghịch trong cuộc sống.
(Xem: 13743)
Trong thời gian yên tu, một hôm bỗng dưng chúng tôi cảm thông được nụ cười nhẹ nhàng hiện trên môi Đức Phật và nụ cười tạm biệt của các thiền sư...
(Xem: 15652)
Bạn sẽ làm gì khi cuộc sống trao cho bạn những phiền toái không thể ngờ? Khi những dự tính không theo ý muốn? Bạn có chấp nhận nó...
(Xem: 16351)
Có phải là chúng ta cảm thấy sung sướng hạnh phúc khi ngày nay dù trên đất Mỹ, con cái chúng ta sống gần gũi trong một tiểu bang...
(Xem: 13636)
Ngày nay những gì chúng ta cần là sự chuyển hóa một cách căn bản trong nhận thức của chúng ta về con người là gì. Chúng ta phải từ bỏ ách nặng...
(Xem: 13472)
Trời đã về khuya. Trăng lên cao sáng vằng vặc trên bầu trời đen thẳm. Triều lẳng lặng bước vào bên trong phòng vẽ chưa đóng cửa...
(Xem: 18278)
Hắn cúp máy rồi, tôi cứ nằm yên đó ngó lên bức tranh mực Tàu trên vách. Ở đó có con thuyền hờ hững trên sông, chẳng biết sắp vào bờ...
(Xem: 12827)
Tịnh thất nằm bên triền núi, quanh năm vắng lặng, ít người lui tới. Cái quang cảnh vắng vẻ heo hút tạo cảm giác rờn rợn khi tôi đặt chân đến.
(Xem: 12499)
Năm đầu tiên đặt chân đến Mỹ, Lễ Tạ Ơn hoàn toàn không có một chút ý nghĩa gì với tôi cả, tôi chỉ vui vì ngày hôm đó được nghỉ làm...
(Xem: 12132)
Đã có người hỏi tôi câu hỏi này mà tôi không trả lời được: "Nói dân tộc Việt Nam có bốn nghìn năm văn hiến. Nhưng có thấy cái gì đâu!"
(Xem: 13344)
Sài gòn không có mùa thu để nhuộm thêm sắc vàng cho những chiếc lá còn lay lắt trên cành. SàiGòn cũng đâu có bầu trời thu trong và mát...
(Xem: 14222)
Sài gòn không có mùa thu để nhuộm thêm sắc vàng cho những chiếc lá còn lay lắt trên cành. SàiGòn cũng đâu có bầu trời thu trong và mát...
(Xem: 15515)
Mấy hôm nay, trời bắt đầu sang thu, thời tiết đã dần dần dịu lại, không khí mỗi lúc trở nên mát mẻ. Chỉ còn độ mươi ngày nữa thôi là đến ngày Lễ Vu Lan rồi.
(Xem: 17688)
Thử hình dung vào một ngày giữa năm Canh Dần 1920, Người đau nặng và trời nổi gió. Bên ngoài sấm rền, còn bên gối thì Người lấy ngón tay gõ nhịp...
(Xem: 13213)
Muốn hạnh phúc, mục tiêu chính của chúng ta là phải chiến đấu với những cảm xúc khổ đau này. Chúng ta chỉ có thể đạt được hạnh phúc khi chúng ta quyết tâmnỗ lực tu tập...
(Xem: 12045)
Trên con phố đìu hiu, buông rơi tình, mỏi mòn thả dài xuống làn sợi tóc sương ngon ngọt, thấm da buốt thịt, vì áo xanh tơ trời đã mòn mỏng theo năm tháng, không đủ để chở qua cơn giá lạnh...
(Xem: 14068)
Hành tung của chư vị Bồ Tát, mang nhục thân thị hiện cõi Ta bà, hóa độ chúng sanh, bằng cái nhìn bình thường của con người không thể nào biết được.
(Xem: 13691)
Vanga sinh ngày 31/1/1911, mất ngày 11/8/1996. Bà sống ẩn dật cả đời ở vùng hẻo lánh Kozhuth thuộc Petrich, Bungary. Vanga mất thị lực năm 12 tuổi...
(Xem: 13589)
Một ngày mùa đông năm Dân quốc thứ 25, trên tòa giảng trong chùa Cổ Lâm tại Nam Kinh, Hòa thượng Tuệ Học đang giảng kinh “Bát Đại Nhân Giác”.
(Xem: 14349)
Trên bàn thờ Phật hương tàn đã lâu. Hai cây nến đỏ cháy cũng gần hết. Ánh sáng lung linh mờ ảo trên mặt tượng Phật. Ẩn hiện nét cười hiền, siêu thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant