Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Bài Mới Nhất trang Văn Học
Điền Email để nhận bài mới

Tâm Sanh Thảy Thảy Pháp Sanh, Tâm Diệt Thảy Thảy Pháp Diệt.

15 Tháng Sáu 202216:20(Xem: 4831)
Tâm Sanh Thảy Thảy Pháp Sanh, Tâm Diệt Thảy Thảy Pháp Diệt.

Tâm Sanh Thảy Thảy Pháp Sanh, Tâm Diệt Thảy Thảy Pháp Diệt.

Nguyễn Thế Đăng


Tâm Sanh Thảy Thảy Pháp Sanh



1/ Có thế giới bởi vì có tâm

Câu lấy làm nhan đề trên ở trong Luận Đại Thừa Khởi Tín của Bồ tát Mã Minh (Asvaghosha), thế kỷ thứ nhất Tây lịch. Câu này thường được các Thiền sư và các hành giả nhắc đến nhiều trên con đường tu tâm.

Tu tâm là tìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm. Ngài Mã Minh nói trong Luận Khởi Tín:

Bởi vì tất cả pháp xưa nay duy chỉ là tâm, thật không có niệm (vô niệm, không có tư tưởng). Nhưng do tâm vọng động, bất giác khởi niệm, thấy các cảnh giới, thế nên nói là vô minh. Tánh của tâm vốn chẳng khởi, đây là Đại trí huệ quang minh tạng”.

Bản tánh của tâm vốn vô niệm, thế nên thực hành Phật pháp là để đạt đến bản tâm vô niệm này:

Thế nên trong các khế kinh dạy rằng: Nếu có chúng sanh quán vô niệm tức là đang hướng đến trí Phật” (Luận Khởi Tín).

Khi tâm vô niệm thì cảnh cũng vô niệm, đó là giải thoáttâm cảnh đều Không.

Lại nữa, hiển thị từ môn sanh diệt tức là nhập môn Chân Như. Nghĩa là, truy tìm năm uẩn, sắc và tâm cùng cảnh giới sáu trần rốt ráo là vô niệm.” (Luận Khởi Tín)

Khi tâm diệt thì thảy thảy pháp diệt, tất cả thế giới sanh tử diệt. Đức Phật nói trong Kinh RohitassaTương Ưng Bộ I:

Chính trong cái thân cao hơn một thước này, với tri giác và trí năng của nó, ta tuyên bố có thế giới, sự phát sanh của thế giới, sự chấm dứt của thế giới, và con đường thực hành đưa đến sự chấm dứt của thế giới”.

Có thế giới, sự phát sanh của thế giới, đó là “tâm sanh thì thảy thảy pháp sanh”. Sự chấm dứt của thế giới, đó là “tâm diệt thì thảy thảy pháp diệt”. Và con đường thực hành đưa đến sự chấm dứt của thế giới là con đường ngộ, nhập bản tánh vô niệm của tâm.

 

2/ Bản tánh của niệm hay tư tưởng

Mục đích của tất cả các con đường Phật giáo là đưa con người trở về nguồn tâm, về bản tánh của tâm vốn vô niệm của chính mỗi người. Nguồn tâm, bản tánh của tâm là tánh Không và tánh sáng. Đó là thật nghĩa của vô niệm.

Chúng sanh lạc vào sanh tử khó có ngày ra khỏi bởi vì họ lạc vào những khởi niệm của chính họ mà không biết cội nguồn của mọi khởi niệm là bản tánh của tâm vốn vô niệm. Nhưng một Bồ tát dù đã đạt đến các địa của Pháp thân vô niệm thì vẫn phải hoạt động ở đời, tự giác-giác tha, nghĩa là vẫn phải dùng hoạt động khởi niệm của tâm. Cùng làm việc ở đời như nhau nhưng sự khác biệt căn bản là Bồ tát ấy biết bản tánh của mọi niệm khởi là tánh Không và tánh sáng. Nghĩa là biết các niệm không khác với cội nguồn vô niệm từ đó chúng khỏi sanh: các niệm là vô niệm.

 

Lục Tổ Huệ Năng không nói vô niệm là không có niệm nào cả mà “nơi niệm mà vô niệm, nơi tướng mà lìa tướng”:

Vô niệm là nơi niệm mà vô niệmVô tướng là nơi tướng mà lìa tướng... Người mê bám vào pháp tướngchấp Nhất hạnh tam muội là thường ngồi chẳng động, vọng niệm chẳng khởi nơi tâm. Nếu hiểu như vậy là đồng với loài vô tình, trở lại thành cái nhân duyên ngăn chướng đạo. Thiện tri thức! Đạo vốn thông lưu, sao lại làm cho ngưng trệ”.

Karmapa thứ Chín Wangchug Dorje (1556-1603) nói trong tác phẩm của ngài The Mahamudra eliminating the darkness of ignorance (Thiền xóa tan bóng tối vô minhThiện Tri Thức, 2001):

Hơn nữa, tư tưởng ngay khi đang khởi thì tự thân nó là tánh Không sáng tỏ. Khi con chứng ngộ hay có được sự quán chiếu này, bấy giờ con đã nhận ra bản tánh của tư tưởng.

Không có chút khác biệt dù nhỏ nhất nào giữa trạng thái vô niệm và trạng thái quán chiếu thấy rõ rằng những tư tưởng chuyển động, tâm an định và bản tánh vô niệm của những tư tưởng, cả ba đều trống không, sáng tỏ và rạng ngời. Cho hai trạng thái đó khác biệt là một nhận xét của tâm thức chưa nhận ra chúng.

Trước kia, khi con chưa nhận ra bản tánh của những tư tưởng, con không thể đem chúng vào trong thiền định của con. Đó là vô minh. Nhưng giờ đây con đã nhận biết chúng, con có thể thiền định về chính những tư tưởng và như thế chúng trở thành tánh giác nguyên sơ. Bây giờ con có thể lấy những tư tưởng làm căn bản của thiền định”.

Lục Tổ Huệ Năng nói Hóa thân là sự biến hóa ra các tư tưởng từ Pháp thân tánh Không, “bản tánh vốn như hư không”. Biến hóa nên là như huyễnnhư huyễn đồng với tánh Không. Hơn nữa, sự biến hóa ấy là sự biến hóa của Tự tánh, của Bản tâm vô niệm, nên gọi là Tự tánh Hóa thân:

Sao gọi là Ngàn Trăm Ức Hóa Thân? Nếu chẳng nghĩ muôn pháp thì bản tánh vốn như hư không. Một niệm nghĩ lường gọi là biến hóa. Nghĩ lường việc ác thì hóa làm địa ngục, nghĩ lường việc thiện thì hóa làm thiên đườngđộc hại hóa làm rồng rắn, từ bi hóa làm Bồ táttrí huệ hóa làm cõi trên, ngu si hóa làm phương dưới. Tự tánh mình biến hóa rất nhiều, người mê chẳng thể tỉnh giácniệm niệm khởi ác, thường hành đường ác. Xoay về một niệm thiện thì trí huệ liền sanh, ấy gọi là Tự tánh Hóa thân Phật” (Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Sám Hối)

 

Trong Kinh Phật địa, nói Diệu quan sát trí và Thành sở tác trí là Hóa thân của Pháp thân Đại viên cảnh trí vô niệm, và hóa thân này hoạt động mạnh mẽ vô tận. Ở đây chỉ trích ra một đoạn (trong mười đoạn) nói về Diệu quan sát trí của Phật:

Như trong thế giới có các núi vua cao lớn hiển hiệndiệu quan sát trí của Phật cũng như vậy, có chư Phật, Bồ tát oai lực diễn nói giáo pháp sâu xa rộng lớn”.

Thành sở tác trí thì gồm cả thân ngữ ý của Phật:

Như thân nghiệp của chúng sanh chuyên cần gắng sức tìm cầu quay cuồng theo các thứ lợi danh, giàu có, công việc. Thành sở tác trí của Như Lai cũng như vậy, thân hóa nghiệp chuyên cần, do đó thị hiện thảy thảy các việc như công xảo, bẻ dẹp tất cả phiền não kiêu mạn của chúng sanh, dùng lực phương tiện thiện xảo dẫn dắt chúng sanh khiến nhập thánh giáo, thành thục giải thoát”.

Về ngữ của Phật:

Lại như ngữ nghiệp phương tiện của chúng sanh, do đó chúng sanh chỉ bảo cho nhau công việc, chê ác khen thiện, cho đến ra lệnh. Thành sở tác trí của Như Lai cũng như vậy, khởi ra phương tiện ngữ nghiệp biến hóa, do đó Như Lai lập ra chỗ học chân chánh, chê trách các buông lung phóng dật, khen ngợi sự chẳng phóng dật. Lại thành lập hạng tùy tín hành và tùy pháp hành…, dùng lực phương tiện thiện xảo ấy dẫn dắt các chúng sanh khiến vào thánh giáothành thục giải thoát”.

Về ý của Phật:

Lại như ý nghiệp tạo tác của chúng sanh, do đó chúng sanh tạo tác thảy thảy các nghiệp được sanh khởi. Ý hóa nghiệp tạo tác của thành sở tác trí của Như Lai cũng như vậy, do đó Như Lai quan sát các hành động của chúng sanh, làm và không làm, hoặc được hoặc mất, khiến cho lấy bỏ mà tạo tác các đối trị, dùng lực phương tiện thiện xảo ấy dẫn dắt chúng sanh khiến vào thánh giáothành thục giải thoát”.

Hoạt động để giải thoát cho chúng sanh của Phật qua diệu quan sát trí và thành sở tác trí là phủ khắp, tác động đến tất cả chúng sanh của ba cõi sanh tử.

 

3/ Sanh mà không sanh, niệm mà vô niệm

Như vậy không nên nghĩ một cách đơn giản rằng vô niệm là không có tư tưởng, không có ý nghĩ, như một loại định bất độngVô niệm là nền tảng căn bản cho mọi khởi niệm, cho mọi hóa thân làm việc.

Một người tu Bồ tát đạo là biết sử dụng niệm, tự tại với niệm, và vô niệm thì vượt khỏi động tĩnh, sanh diệt, tăng giảm, dơ sạch…, nghĩa là niệm đồng với vô niệm, chính là tánh Không và tánh sáng.

Lục Tổ Huệ Năng nói với Sư Pháp Hải:

“Niệm trước chẳng sanh tức tâm

Niệm sau chẳng diệt tức Phật”.

Không sanh mà chẳng diệt, chứ không phải không sanh mà tịch diệtvô vi.

 

Dza Patrul Rinpoche (1808-1887), một vị Thầy Dzogchen Tây Tạng, giảng về Ba Lời Tuyên Bố Đánh Vào Những Điểm Thiết Yếu của Garab Dorje, trong cuốn The Golden Letters (Những Chữ Vàng, nxb Thiện Tri Thức, 2002).

Khi nói về sự khởi niệm, để giảng Lời Tuyên bố thứ Ba của Garab Dorje, ngài đã viết:

Vào lúc đó, bất cứ tham hay sân, vui hay buồn,

Bất cứ tư tưởng nào lan man khởi lên,

Trong trạng thái nhận biết chúng, người ta

không theo chúng.

Từ đó người ta nắm giữ sự nhận biết Pháp

  thân về mặt giải thoát,

Bấy giờ giống như vẽ hình trên mặt nước,

Không có cách hở giữa tự-sanh khởi

 (của những tư tưởng) và tự-giải thoát của chúng.

Bất cứ niệm nào khởi lên (trong tâm) đều thành

     thực phẩm cho tánh Giác trống không trần trụi;

Khi nào những chuyển động (của tư tưởng xảy ra),

 chúng biểu hiện năng lực sáng tạo của pháp thân;

Không để lại dấu vết, chúng tự-tịnh hóa.

A-la-la! 

Thiền sư Minh Châu Hương Hải (1629 – 1715) có bài kệ:

Nhạn qua trời không

Ảnh chìm nước lạnh

Nhạn không có ý để dấu

Nước không có tâm giữ ảnh.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 454)
Vesak theo truyền thống gắn liền với sự ra đời, giác ngộ và nhập Niết bàn của Đức Phật,
(Xem: 481)
Bồ Tát Đạo là con đường mà vị Bồ Tát phải đi qua. Đây là những giai đoạn mà một vị Bồ Tát kinh qua trên đường giác ngộ.
(Xem: 735)
Trong triết lý sống của ông cha ta, có một câu nói nghe qua tưởng nghịch lý nhưng lại ẩn chứa sự minh triết sâu sắc
(Xem: 813)
Hiện nay đang ở vào thời mạt thế, xuất hiện nhiều tà sư hướng dẫn Phật tử vào con đường sai lạc. Điều này không phải bây giờ mới có.
(Xem: 878)
Bài này được viết với chủ đề ghi lời Đức Phật dạy rằng hãy giữ thân không bệnh, để có thể học và tu pháp giải thoát.
(Xem: 889)
Cách đây hơn 2500 năm trước, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng dự ngôn, sau khi Ngài ly thế, cũng chính là vào thời kỳ Mạt pháp thì
(Xem: 733)
Đạo đức không còn là một khái niệm, một lời kêu gọi ‘hãy sống thiện’, một giá trị lý tưởng cao xa, mà là một thực thể cụ thể, ăn được, uống được, thu nạp được, và ăn uống được nên mới “say”.
(Xem: 853)
Quan điểm cho rằng tâm trí của chúng ta có chiều sâu vô thức đã trở nên phổ biến do sự phổ biến của phân tâm học và các kỹ thuật trị liệu liên quan.
(Xem: 957)
Trong kinh điển Phật giáo, từ Hán tạng cho đến Nikāya nói chung, thật sự không quá khó để tìm thấy những cụm từ liên quan đến một phương tiện
(Xem: 917)
Người học Phật, chẳng những phải tham cứu chơn lý, mà lại cần phải y như chơn-lý mà thiệt thành cho đến khi chứng đặng chơn-lý;
(Xem: 942)
Phật tánh là chủ đề chính của Kinh Đại Bát Niết Bàn do ngài Đàm Vô Sấm (385 – 433) mang qua Trung Hoa và dịch.
(Xem: 1109)
Đôi khi bạn rơi vào một diễn đàn Phật pháp trên Internet, bất ngờ lại thấy tranh cãi bộ phái, rằng chuyện Nam Tông thế này và Bắc Tông thế kia
(Xem: 1157)
Trong giáo lý nhà Phật, "kham nhẫn" và "nhẫn nhục" là hai phạm trù rất quan trọng trong việc tu tập.
(Xem: 1071)
Phật giáo cũng như vận mệnh của người dân, luôn thăng trầm theo thời cuộc.
(Xem: 1128)
Hãy buông xả và cuộc sống của bạn sẽ tốt hơn. Một kỹ năng sống không thể thiếu.
(Xem: 961)
Từ thời học tiểu học, trong mỗi cuốn vở đều thấy có in dòng chữ “Ngày nay học tập, ngày mai giúp đời”.
(Xem: 1805)
Tôi không dám so sánh vì ai cũng có cuộc du hành cuối đời, tôi đã khá xúc động mạnh khi đọc kinh Đại Bát Niết Bàn hồi còn trẻ, nhưng hiện tại tôi đang tưởng niệm và cảm xúc đến Thầy tôi nên xin viết ra đây để kỷ niệm.
(Xem: 995)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(Xem: 938)
Năm ấy Bồ Đề Đạt Ma đến Trung Nguyên hoằng pháp. Ngài gặp Lương Võ Đế, một ông vua có tiếng sùng đạo, mến mộ Phật pháp.
(Xem: 1475)
Có khi nào bạn hỏi: “Tại sao khi càng lớn tuổi, người ta càng thích sống một mình và bớt đi nhiều mối quan hệ?”
(Xem: 1499)
Sâu thẳm bên trong tất cả chúng sinh là một loại tia lửa thắp sáng và sưởi ấm cuộc sống của chúng ta. Nó được gọi bằng nhiều tên trong nhiều truyền thống khác nhau.
(Xem: 1321)
Chúng con trân trọng kính mời quý vị tham gia một Ngày Quán Niệm với chủ đề “Tháng Tư Nuôi Dưỡng và Trị Liệu” dành cho các tăng thân người Việt do quý thầy và sư cô của Tu Viện Lộc Uyểnhướng dẫn tại Quận Cam.
(Xem: 1719)
Có khi nào bạn hỏi: “Tại sao khi càng lớn tuổi, người ta càng thích sống một mình và bớt đi nhiều mối quan hệ?”
(Xem: 1637)
Sâu thẳm bên trong tất cả chúng sinh là một loại tia lửa thắp sáng và sưởi ấm cuộc sống của chúng ta.
(Xem: 1090)
Bản kinh dưới đây là “Bahiya Sutta,” trong Tiểu Bộ Kinh (Khuddhaka Nikaya) trong Tam Tạng Pali,
(Xem: 1810)
Tứ Như Ý Túc, là pháp hành thứ ba, đứng sau Tứ Niệm XứTứ Chánh Cần. Sau Tứ Như Ý TúcNgũ Căn, Ngũ Lực,
(Xem: 1549)
Sự kiện Đức Phật nhập Niết-bàn thường được các giới Phật giáo tổ chức thành một lễ hội thiêng liêng.
(Xem: 1064)
Chúng ta hành thiền để tìm hạnh phúc, nhưng trước hết chúng ta phải mang chút hạnh phúc đến với thiền nếu ta muốn có kết quả.
(Xem: 1628)
Hộ niệm hay giáo hóa cho người bệnh sắp chết là pháp hành quan trọng và phổ biến trong thời đại Thế Tôn. Pháp tu này
(Xem: 1093)
Chúng ta hành thiền để tìm hạnh phúc, nhưng trước hết chúng ta phải mang chút hạnh phúc đến với thiền nếu ta muốn có kết quả.
(Xem: 1726)
Tứ Như Ý Túc, là pháp hành thứ ba, đứng sau Tứ Niệm XứTứ Chánh Cần.
(Xem: 1671)
Bộ Cao Tăng truyện của nhà sử học Phật giáo cao tăng Huệ Kiểu (497-554) là bộ sử liệu quan trọng
(Xem: 1020)
Trong Kinh Từ Bi (Metta Sutta). Đức Phật liệt kê mười lăm điều kiện thiện lành, tạo nên sự bình an bên trong, và đưa chúng ta đến lòng từ bi.
(Xem: 1015)
Khi đa số người trong một xã hội không có niềm tin về chính mình, không biết “tôi là ai”,
(Xem: 2194)
Trong cuộc sống chúng ta thường lẫn lộn giữa thực tếước mơ, thế nhưng ước mơ cũng có thể giúp chúng ta nhìn vào thực tế một cách thực tế hơn
(Xem: 1946)
Sau thực phẩm, ngôn ngữ là nguồn nước của dòng chảy văn hóa trong đó văn là vẻ đẹp (văn vẻ), hóa là sự thay đổi.
(Xem: 1568)
Trong cuộc sống chúng ta thường lẫn lộn giữa thực tếước mơ, thế nhưng ước mơ cũng có thể giúp chúng ta nhìn vào thực tế
(Xem: 2299)
Đức Phật đã từng xác định pháp tu Tứ Niệm Xứ là “Con đường độc nhất đưa đến: Thanh tịnh chúng sanh; Vượt khỏi sầu não;
(Xem: 2193)
Khi nào bạn thấy tâm và cảnh vốn là không, bạn sẽ thấy bất kỳ nơi nào cũng là Niết Bản.
(Xem: 2119)
“Tâm linh” vốn là cụm từ mà đối với nhiều người vẫn xem đó là những gì thuộc về thế giới siêu linh, huyền bí, thuộc về cõi âm.
(Xem: 2194)
Phát xuất từ lời Phật dạy trên đây mà ngài Châu Hoằng nhắc nhở các Sa di không được nghe lén Tỷ kheo tụng giới.
(Xem: 1855)
Ngay cả khi con trẻ không hiểu ý nghĩa, việc quy y vẫn có thể giúp chúng phát triển nghiệp duyên với Pháp.
(Xem: 1236)
Trong thực tế đời sống, có những vấn đề lặp lại thường gắn với sự đơn diệu tẻ nhạt,
(Xem: 2337)
Duy thức tam thập tụng là một bộ trước tác rất trọng yếu trong pháp tướng duy thức, còn là cương lĩnhyếu chỉ của duy thức học.
(Xem: 2368)
Phi-bạo-lực là một giải pháp thực tế trước các sự xung đột trong thời đại của chúng ta.
(Xem: 1801)
Phật tử chúng ta thường đặt hoa trên bàn thờ. Chúng ta biết hoa rất đẹp, nhưng đó không phải là mục đích chúng ta đặt chúng ở đấy.
(Xem: 2344)
Bài này sẽ viết trong tinh thần đối chiếu Kinh Pháp Cú với Thiền Tông.
(Xem: 1490)
Bên ngoài trời đã lạnh. Ra ngoài phải khoác thêm áo ấm; trong nhà phải vặn lò sưởi.
(Xem: 1548)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương.
Quảng Cáo Bảo Trợ
free website cloud based tv menu online azimenu
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant