Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Bài Mới Nhất trang Văn Học
Điền Email để nhận bài mới

Ngũ Giới – Nền Tảng Đạo Đức Không Chỉ Riêng Người Con Phật Mới Cần Giữ Gìn

02 Tháng Bảy 202209:37(Xem: 4890)
Ngũ Giới – Nền Tảng Đạo Đức Không Chỉ Riêng Người Con Phật Mới Cần Giữ Gìn
Ngũ Giới – Nền Tảng Đạo Đức Không Chỉ Riêng Người Con Phật Mới Cần Giữ Gìn

Hoài Mộng Trung Nhân

sen chua1

Phật giáo, một con đường lý tưởng đi vào lòng dân tộc Việt từ ngàn xưa, trở thành một nếp sống tâm linh thuần thiện và tịnh khiết, dẫn con người ra khỏi vũng lầy nhơ nhuốc của tội ác và những mặt tiêu cực trong đời sống. Không những thế, Phật giáo còn khẳng định sự lợi ích của mình ở khắp mọi nơi trên thế giới bằng năng lượng yêu thương và chuyển hóa những khổ đau đang trói buộc, dày vò từng giây từng phút trong tâm khảm của những mảnh đời khốn khổ, thiết lập cho họ một “hải đảo” bình yên.

DIỆU PHÁP CỦA ĐỨC PHẬT

Với lẽ trung đạoĐức Phật, một con người rất đỗi bình thường nhưng mang trong mình một thánh cách tối thượng giữa muôn loài, đã đem “chánh pháp nhãn tạng” chữa khỏi căn bệnh mù lòa bởi ái thủ câu thúc, đã chèo con thuyền báu cứu vớt vạn loại hàm linh đang lặn hụp trong vũng lầy uế trược, đã đem sự thật phơi bày ra ánh sáng, đem ngọn đuốc trí tuệ soi rõ mọi nẻo vô minh. Các đệ tử của Ngài, những người con của Như Lai đã mang Phật pháp đến những phương trời cao rộng, ươm mầm phước thiện cho toàn cõi nhân sinhPhật giáo, với những giáo lý cốt tủy như: Tứ đếBát Chánh đạoDuyên khởiVô thường, Vô ngã… đã làm nên một hệ thống triết học, triết lý về sự giải thoát.

Bên cạnh những giáo lý được cho là cao siêu của bậc hiền thánh, chú trọng đến sự giải thoát hoàn toàn khỏi những khổ đau nơi tấm thân ngũ ấm giả tạm này, Phật giáo còn có những giáo lý dễ hiểu, dễ nhận biết và thực hành hơn, dành cho những người chưa có một môi trường thuần túy tu tập vẫn có thể thực hành lời Phật dạy một cách thuận tiện. Qua đó, đem lại lợi ích thiết thực ngay trong đời sống hiện tại mà không làm cản trở môi trường sinh hoạt hằng ngàykiến thiết một nếp sống lành mạnh cho tự thân và không tổn hại đến những sinh mệnh xung quanh đang cùng chung sống. Đó chính là năm yếu tố căn bản của đạo đức con người, hay còn gọi là Ngũ giớiNgũ giới được Đức Thế Tôn đề cập đến trong kinh tạng gồm năm điều: Không sát sinh, không trộm cướp, không tà dâm, không vọng ngữ và không uống rượu.

Giới chính là phương tiện tuyệt vời để mỗi người xây dựng một bầu trời phẩm cách, tạo nên một xã hội văn minh mà mọi dấu vết của những điều xấu ác dường như bị xóa sạch.

Tại sao lại không nên sát sinh? Đức Phật dạy: “Này các Tỳ kheo, nếu có người nào có ý thích sát sinh, hành sát sinh, liền bị đọa vào địa ngụcngạ quỷsúc sinh; nếu sinh vào cõi người thì thọ mạng ngắn ngủi. Vì sao vậy? Vì họ đã dứt sinh mạng kẻ khác. Cho nên, này các Tỳ kheo, hãy học chớ sát sinh” [1]. Sát sinh tức là chấm dứt sinh mạng của các loài vật có sự sống. Sinh vật trên thế gian, những gì được cho là có sự sống, có ý thức tham sống sợ chết. Nếu chúng ta rắp tâm sát hại chúng, thật là trái với lẽ sống lắm thay! Ngay chính chúng ta cũng ham thích được sống và sợ hãi khi cận kề cái chết. Vậy cớ sao ta có thể đành lòng ra tay tước đi mạng sống của một chúng sinh khác cơ chứ! Đó là chưa kể đến, nỗi sợ hãi của chúng sinh trước khi bị giết sẽ tích tụ thành khối oán thù đeo bám mãi kẻ đã giết hại mình, để giết lại họ cho bằng được mới cam tâm, khiến oán thù ngày một chồng chất. Cho nên, Đức Phật đã dạy:

“Hận thù diệt hận thù

Đời này không thể có

Từ bi diệt hận thù

Là định luật ngàn thu” [2].

Thật vậy, nếu chúng ta cứ đối đãi với nhau bằng hận thù thì cũng giống như những mẩu chuyện oan oan tương báo, trải từ kiếp này qua kiếp khác, mãi tái sinh trở lại để tàn hại lẫn nhau, để rồi không bao giờ đến hồi kết thúc. Chỉ có vận dụng lòng từ bi, lấy sự yêu thương mà cảm hóa những tâm hồn đang cuồng bạo bởi oán hận thấu trời, mới may ra dập tắt được ngọn lửa thù hằn đang ngày càng rực cháy. Chỉ có người với lòng từ bi rộng lớn mới tha thứ được lỗi lầm của đối phương đã mang đến cho mình, mới chấp nhận và quên đi khổ đau mà người khác rắp tâm hãm hại. Từ bi giống như suối nguồn tươi mát vô tậnthấm nhuần những mảnh vườn tâm đang bị khô cằn bởi nhiệt lượng khủng khiếp do lửa hận tỏa ra, cứu vớt biết bao mảnh đời héo úa. Từ bi còn có công năng giúp ta phòng hộ tam nghiệp khỏi lửa hận thiêu cháy, mở ra con đường chấm dứt hận thù tiếp diễn. Vì thế, từ bi là phẩm chất mà mỗi người cần có để bảo vệ và cải thiện môi trường sống xung quanh.

Tại sao Phật dạy không nên trộm cướp? Vì: “Này các Tỳ kheo, nếu có người nào có ý thích trộm cướp, lấy tài vật của người khác, liền bị đọa vào địa ngụcngạ quỷsúc sinh; nếu sinh vào cõi người rất là nghèo túng. Vì sao vậy? Vì đã dứt sinh nghiệp người khác. Cho nên, này các Tỳ kheo, hãy học xa lìa lấy của không được cho” [3]. Mỗi người có mặt trên thế gian này, ngay cả các loài sinh vật được cho là có trí thông minh; ngoài chấp thủ về “tự ngã”, còn có sự chấp thủ về sở hữu của riêng mình hay còn gọi là “ngã sở thuộc”. Ví như sở hữu của con người là nhà cửa, tài sảndanh tiếng, vợ con…; sở hữu của con chim là tổ, con, mồi của nó…; và nhiều loài sinh vật khác cũng tương tự thế. Hễ ai động đến những thứ ngã sở thuộc của người (vật) khác thì họ (chúng) sẽ phản ứng lại như một sự tự vệ tự nhiên để bảo vệ những cái sở hữu của riêng mình. Và thứ sở hữu quý giá nhất chính là mạng sống. Một khi mạng sống của con người hay sinh vật sắp bị đe dọa và lấy đibản năng sinh tồn có thể làm bộc phát sức mạnh phi thường để giành giật lại sinh mệnh của mình từ tay cái chết.

Bởi thế, việc sát sinh tức là cướp đoạt mạng sống của sinh loại khác. Nếu không muốn đọa lạc nơi Tam đồ, không muốn sanh làm người nghèo túng, chúng ta phải chấm dứt những hành động trộm cướp ngay từ bây giờ, để góp phần tạo dựng một xã hội văn minh, không hận thù, không đấu tranh giành giật, không đói khổ triền miên. Và thực hành từ thiệnbố thí như một pháp tu để đối trị nghiệp trộm cướp, để cuộc đời đẹp đẽ và đầy đủ tất cả; khi chết sẽ thác sanh vào cõi ngườicõi trời, hưởng phước vô lượng.

Tại sao Phật dạy không nên tà dâm? Vì: “Nếu có người nào dâm dật vô độ, thích xâm phạm vợ người, liền bị đọa vào địa ngụcngạ quỷsúc sinh; nếu sinh vào cõi người thì khuê môn dâm loạn. Cho nên, này các Tỳ kheo, hãy thường chánh ý, chớ khởi ý tưởng dâm. Cẩn thận chớ xâm phạm vợ người” [4]. Vợ người cũng là tài sản, là sở thuộc riêng của người ấy. Nếu một người dâm loạn với vợ người khác cũng giống như cướp đoạt tài sản của họ vậy. Việc làm bày không những phạm tà dâm mà còn phạm cả tội cướp vợ người nữa.

Hậu quả của tà dâm mang lại không hề nhỏ trong xã hội: Thứ nhất, phá hoại hạnh phúc gia đình người khác; thứ hai, đánh mất thuần phong mỹ tục, đặc biệt ở những đất nước chú trọng nếp sống đoan chánh; thứ ba, tạo sân hận, hiềm thù giữa người với người; thứ tư, là nguyên nhân gián tiếpthúc đẩy việc giết người, khi chồng của người phụ nữ kia phát hiện việc vợ mình tà dâm với một người đàn ông khác và lòng sân hận đã đạt đến đỉnh điểm… Thế nên, tác hại của hành động tà dâm vợ người khác gây nên hậu quả rất nghiêm trọng trong xã hội.

Tà dâm không chỉ là việc qua lại với vợ người khác, thực hành việc dâm dục quá độ với vợ của chính mình cũng là tà dâm. Hành dâm không biết chừng mực, bất kể thời giankhông gian hay cưỡng ép, bắt buộc giữa vợ chồng cũng được cho là tà hạnh vậy. Điều này sẽ dần tác động đến thời khóa sinh hoạt, làm việc và đặc biệt là sức khỏe khi thực hành quá mức. Chính vì những tác hại của nó, nên Đức Phật khuyên không nên tà hạnh và phải biết tiết độ trong đời sống vợ chồng. Giữ gìn hạnh phúc gia đình cho người khác cũng chính là gìn giữ hạnh phúc gia đình và phẩm cách chính mình.

Vì sao Đức Phật khuyên không nên vọng ngữ? Bởi: “Này các Tỳ kheo, nếu có người nào nói dối, nói thêu dệt, gây tranh cãi phải quấy, thì liền bị đọa vào địa ngụcngạ quỷsúc sinh. Vì sao vậy? Vì sự nói dối ấy. Cho nên, này các Tỳ kheo, phải chí thành không được nói dối” [5]. Một vị Tỳ kheo đệ tử Phật, một người nương theo Tam bảo, nương theo con đường Như Lai đã khai mở để đi tìm ra sự thật giữa muôn trùng giả tạm phù hư, lẽ nào lại lấy lời dối trá để tự lừa mình dối người, lẽ nào lại lấy lời thêu dệt để hoán vọng đổi chơn, gây sự tranh cãi lẫn nhau thì thật không đáng có. Một người thật thà, chất phác sẽ được mọi người kính yêu, tin tưởng; còn người dối trá sẽ bị mọi người ghét bỏ, xa lánh vì đánh mất niềm tin người khác đã dành cho họ. Tuy nhiên, trong cuộc sống thường xuyên biến đổi, đôi lúc chúng ta vẫn phải lựa chọn nói dối như một đáp án không thể khác, để không phải đưa mình vào hoàn cảnh bế tắc khó xử, để công việc thuận lợi, êm xuôi. Nhưng chung quy lại, chúng ta vẫn không thể phủ nhận tác hại của lời nói dối gây ra dù ít hay nhiều, nghiêm trọng hay chỉ tổn thương nho nhỏ. Khi nói dối vì mục đích tốt hay ý đồ xấu ác hại nhau… đều dẫn đến hậu quả nhất định cho cả chúng ta và người khác. Đặc biệt, khi dối trá trở thành thói quen, tập quán nghiệp trong mỗi người, chúng sẽ nuốt chửng sự thật và khiến họ chìm ngập trong bóng tối tội lỗi do chính sự dối trá của họ tạo ra, hay thậm chí là tự dối lừa chính mình trong vô thứcCâu chuyện cậu bé chăn cừu do nói dối người dân về việc gặp sói, cho nên, khi gặp sói thật, cậu kêu mãi chẳng có ai đến giúp và cái kết là đàn cừu đã bị sói ăn mất. Mẫu chuyện này đã trở thành thông điệp mà người lớn thường sử dụng để giáo dục con em về việc không được nói dối. Thế mới thấy tầm quan trọng của sự thật trong lòng mỗi người và dối trá là hành vi cần trừ bỏ.

Vì sao Đức Phật khuyên người không nên uống rượu? Vì: “Này các Tỳ kheo, nếu có người nào tâm ham uống rượu, thì sẽ sinh vào nơi không có trí tuệ, thường chịu ngu si. Cho nên, này các Tỳ kheocẩn thận chớ uống rượu” [6]. Rượu bia hay các chất kích thích khác là những thứ tác động, gây ức chế trực tiếp đến hệ thống thần kinh người dùng. Một trong số đó có thể làm dược liệu khi biết sử dụng đúng cách và đúng liều lượng, nhưng nếu lạm dụng sẽ gây tổn hại đến hệ thần kinh, gây tê liệt và mất tự chủ. Các tệ nạn xã hội liên quan đến rượu bia và những chất kích thích khác diễn ra hằng ngàyxuất hiện bàng bạc trên các phương tiện truyền thông đại chúng, để lại hậu quả nặng nề. Nhưng vì lợi nhuận cao, chúng vẫn lưu hành như món hàng thiết yếu, mặc kệ sự chỉ trích của tòa án lương tâm, liều mình dùng giấy bạc để che mờ luật pháp, gây nên sự suy đồi của nhiều người.

Đức Phật dạy: “Này các Tỳ kheo, nếu có người nào có ý thích sát sinh, hành sát sinh, liền bị đọa vào địa ngụcngạ quỷsúc sinh; nếu sinh vào cõi người thì thọ mạng ngắn ngủi. Vì sao vậy? Vì họ đã dứt sinh mạng kẻ khác.

Các chất kích thích nếu sử dụng bừa bãi sẽ gây hại đến sức khỏe của người sử dụng, gây nên những triệu chứng ức chếrối loạn thần kinhsa sút trí tuệtư tưởng không sáng suốt và dễ sân hận. Nếu sử dụng chất kích thích trong thời gian dài sẽ gây suy giảm sức khỏe, mất khả năng đề kháng. Khi cơ thể đã mang bệnh tật thì sức lực không còn, công việc bị bỏ dở, sự nghiệp tàn lụi nhanh chóng; thậm chí, rượu vào lời ra, nói năng, hành động bồng bột, thiếu kiểm soát dẫn đến tự rước họa vào thân, dễ vướng vào vòng lao lý, đánh mất nhân cách và tự chôn vùi phẩm giá của chính mình. Trong năm điều Đức Phật khuyên dạy không nên phạm phải thì uống rượu hay sử dụng chất kích thích có thể xem là điều nguy hại nhất. Vì cơ thể mất kiểm soát là nguyên nhân trực tiếp hoặc gián tiếp cho việc thực hành sát sinh, trộm cướp, tà hạnh và vọng ngữ. Rượu (các chất kích thích) giống như thuốc độc diệt hết các mầm giống trí tuệ; mà trí tuệ là cái quý giá nhất con người luôn hướng đến để phát triển thế giới, cũng là vũ khí chuyên dụng để người con Phật xuyên thủng mọi lá chắn vô minh. Chính vì những tác hại khôn lường này, rượu bia (chất kích thích) cần được kiểm soát nghiêm ngặt và sử dụng hợp lý trong đời sống xã hội.

TẠM KẾT

Ngũ giới tuy bắt nguồn từ Phật giáo và lưu truyền đến ngày nay, nhưng đây không chỉ là quy chuẩn dành riêng cho người con Phật mà còn là những giá trị căn bản nhất cho thước đo đạo đức một con người cần có để tiết chế đời sống và phát triển bản thânNgũ giới vừa là nấc thang đầu tiên cho những người mới vào đạo, vừa là chiếc máy gạn lọc sỏi đá cặn bã gây nguy hại cho xã hộinhân sinh; hướng con người dần đến chỗ hoàn thiện nhất về mọi mặt trong đời sống. Nếu xã hội mà không còn những tội nhân giết người hay các sinh loại ăn nuốt lẫn nhau; một xã hội không có nạn trộm cướp; một xã hội mà không còn dâm loạn, bất chính; một xã hội mà người người đều thật lòng đối đãi với nhau; một xã hội mà không có tàng trữ và buôn bán chất kích thích, gây nguy hại cho sức khỏe thì xã hội đó thật là một nơi lý tưởngtrong sạchlành mạnh và an ổn mà thâm tâm thiện lương của mỗi con người hằng mong ướcThế giới này không phải là thế giới hư ảo do vô minh tạo ra, nó hoàn toàn có thể được kiến thiết bằng chính nỗ lực tự thân của mỗi người nhờ tinh cầntu tập rốt ráo năm nền tảng căn bản của đạo đức mà Đức Thế Tôn, một con người tự thân chứng biết, trải nghiệm và chỉ bày cho chúng sanh. Giới của Đức Phật dạy không phải là những điều luật khắt khe vô lý. Giới chính là phương tiện tuyệt vời để mỗi người xây dựng một bầu trời phẩm cách, tạo nên một xã hội văn minh mà mọi dấu vết của những điều xấu ác dường như bị xóa sạch. Vì thế, bất kỳ ai, nếu muốn sống trong lợi íchan lạc hãy giữ gìn Ngũ giới như bảo vệ nhãn căn của chính mình.


(Trích từ: Tạp chí Văn Hóa Phật Giáo Số 391) 

 

Chú thích:

Tỳ kheo Thích Tấn Nguyện, Học viện Phật giáo Việt Nam tại TP. HCM.
[1], [3], [4], [5], [6] Thích Đức Thắng dịch (2011), Thích Tuệ Sỹ hiệu chính và chú thích, Kinh Tăng nhất A-hàm, Tập 1, Số 14 – Phẩm Ngũ Giới, Nxb. Phương Đông, TP. Hồ Chí Minh.
[2] HT. Thích Minh Châu dịch (1999), Tiểu Bộ kinh 1, Pháp Cú – Số 5, Nxb. Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2495)
Phật giáo đề cao giá trị của hạnh buông xả – một trong những đức hạnh căn bản giúp con người thoát khỏi khổ đau, đạt được sự an lạctự do nội tâm.
(Xem: 2925)
Không chỉ riêng với Phật giáo dân gian, hầu hết (và có thể là tất cả) các tôn giáo khác, đều tin rằng có một kiếp sau, hay một đời sau.
(Xem: 2443)
Phật tánhchủ đề của Kinh Đại Bát Niết Bàn và được luận giảng trong Phật tánh luận.
(Xem: 2465)
Phàm làm việc gì muốn được thành công, trước tiên đòi hỏi người ta phải siêng năng.
(Xem: 1556)
Chữ Tánh, Bản tánh, Tự tánh được nói đến trong rất nhiều kinh, luận Đại thừa. Đó cũng chính là mục đích rốt ráo cần tu chứng.
(Xem: 2418)
Trong khi một số vị Pháp sư cố gắng hết sức để quảng bá giáo lý của họ – bằng cách viếng thăm các chùa và tu viện khác nhau trên khắp thế giới
(Xem: 2099)
Hãy quán niệm thật sâu. Một khi có sinh, phải có khổ. Tất cả chúng ta đều phải chịu đựng theo cách đó.
(Xem: 2759)
Khát khao là một cảm xúc tự nhiên của con người, biểu hiện qua mong muốn đạt được điều mà mình cho là quan trọng hoặc cần thiết.
(Xem: 1909)
Từ nguyên thủy, tất cả chúng sanh đều muốn được hạnh phúc, và không muốn đau khổ.
(Xem: 3093)
Vipassana và sathama là hai phương phápthiền nổi bật mang đến những trải nghiệm tâm hồn độc đáo.
(Xem: 2242)
Nguyện là lý tưởng, là mục đích, là định hướng cho cuộc hành trình.
(Xem: 3583)
Một trong những đóng góp to lớn của Hoà thượng Thích Minh Châu là sự nghiệpphiên dịch kinh điển.
(Xem: 2125)
Trong kinh Hoa nghiêm Đức Phật có dạy: “Nhất niệm sân tâm khởi, bách vạn chướng môn khai”
(Xem: 1933)
Chúng ta có cuộc sống khác nhau trên những giai tầng xã hội, cung bậc tình cảm, cảnh giới tâm linh.
(Xem: 2968)
Khi đức Phật thành đạo dưới cội Bồ Đề, ngài đứng trước một lựa chọn trọng đại:
(Xem: 2622)
Ngày xưa, đa phần chùa ở Á Châu được xây dựng trên núi, nên vị Thầy đến đó dựng chùa gọi là Thầy Khai sơn, Trụ trì.
(Xem: 2134)
Sống trong một nền văn hóa dựa trên sợ hãi, điều đó chắc chắn ảnh hưởng đến trạng thái tâm của bạn và những quyết định bạn đưa ra.
(Xem: 3007)
Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán dùng mỗi ngày một bữa, không ăn ban đêm, từ bỏ không ăn ban đêm, từ bỏ ăn phi thời.
(Xem: 2901)
Khi nói đến thiền Quán là nói đến Tứ Niệm Xứ. Quán Tứ Niệm Xứthiết lập Chánh niệm trên bốn lãnh vực Thân, Thọ, Tâm, Pháp.
(Xem: 2837)
Muốn chuyển hóa cảm xúc thì chúng ta cần chuyển hóa nhận thức trước, đau khổ đơn thuần cũng chỉ là một trạng thái của tâm.
(Xem: 1972)
Bất cứ dược phẩm nào được tìm ra trong thế giới, dù nhiều và đa dạng, không có thứ nào bằng Pháp (trích từ Milindapanha).
(Xem: 2491)
Trong khi một số vị Pháp sư cố gắng hết sức để quảng bá giáo lý của họ – bằng cách viếng thăm các chùa và tu viện khác nhau
(Xem: 2442)
Từ xưa đến nay, chánh ngữ vẫn là yếu tố cần thiết để khẳng định “tính người” trong mỗi cá nhân,
(Xem: 1839)
Sinh, lão, bệnh và tử: những điều này là bình thường. Sinh là bản chất bình thường của sự vật
(Xem: 2078)
Thay đổi, biến động, dịch chuyển vốn là tính chất thường hằngcủa vạn hữu: có sinh ắt có diệt.
(Xem: 2783)
Trong cuộc sống đời thường, mỗi ngày chúng ta phải quyết định hàng trăm, hàng ngàn lần.
(Xem: 1605)
“Thử tại tâm trung xuất hình ư ngoại” Đó là câu nói của cổ nhân, cũng có thể nói: “ Tâm sanh tướng”.
(Xem: 2162)
Khi đề cập đến những người tu trong Phật Giáo, thì chúng ta thấy có phân ra hai khuynh hướng tu học, một số vị thì nghiêng về pháp học, còn số vị khác lại chuyên về pháp hành.
(Xem: 2516)
Người xuất gia mang trên mình một hoài bão lớn là hướng tâm đến giải thoát tự thân và giúp người khác giải thoát.
(Xem: 3287)
Đức Quán Thế Âm trở nên thân thiết trong đời sống của người dân Việt đến mức trong sâu thẳm trái tim của mỗi người...
(Xem: 2261)
Nghe nói đến người tu, tưởng chừng như người ấy làm cái gì to lớn, đội đá vá trời, dời non, lấp biển;
(Xem: 3152)
Ngũ cănngũ lực tiếng Phạn là Pancindriya và Pancabala. Indriya có nghĩa là nguồn gốc, khả năng để tất cả các thiện pháp sinh khởi.
(Xem: 2928)
Nếu người nam hay người nữ nào, hành pháp ác bất thiện, phạm giới; thân thành tựu ác hạnh; khẩu, ý thành tựu ác hạnh;
(Xem: 2325)
Tu theo Giáo môn hoặc Thiền môn, họ tuân theo lời dạy của Phật hoặc Tổ sư, bám chặt vào lời nói của Phật hay Tổ ghi chép
(Xem: 2709)
Ăn chay, không ăn thịt, là một truyền thống cao đẹp hơn ngàn năm nay ở nước ta, phù hợp một cách sâu xa với tinh thần sùng cao của Phật giáo.
(Xem: 1754)
Chuyện người tu hành bị ma quỷ nhiễu hại xưa nay không phải là hiếm. Những bậc Thánh tăng còn bị làm hại huống gì phàm tăng.
(Xem: 3071)
Khi thức dậy, điều gì là điều đầu tiên chúng ta nghĩ đến?
(Xem: 3001)
Đời sống của con người thọ mạng nhiều lắm chỉ trên dưới trăm năm.
(Xem: 3210)
Khi chúng ta thức dậy vào buổi sáng và nghe radio hoặc đọc báo, chúng ta phải đối mặt với những tin buồn: bạo lực, tội ác, chiến tranh và thiên tai.
(Xem: 2734)
Một trong những đặc điểm của đời sống xuất giadu hành. Không thường ở một nơi cố định, Tỳ-kheo có thể tùy duyên vân du giáo hóa.
(Xem: 2824)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da ThứcMạt Na Thức,) được xem là
(Xem: 2956)
Sinh già bệnh chết là bản chất của đời sống con người. Ai cũng phải trải qua tiến trình này vì có sinh ắt có diệt. Có điều việc này đến với mỗi người nhanh chậm khác nhau.
(Xem: 2411)
Những lời chỉ dạy của đức Phật có khả năng chuyển hóa nỗi khổ niềm đau, thành an vui hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ bằng sự tin sâu nhân quả
(Xem: 2453)
Có người ở chùa mấy mươi năm mà không ý thức được mình đang ở đoạn đường nào trên con đường mà mình đang đi.
(Xem: 2053)
Quán Thế Âm Bồ Tát có rất nhiều nhân duyên với chúng sanh trong cõi Ta Bà này.
(Xem: 2293)
Có lẽ ai cũng cảm nhận được rằng, cuộc sống này hiếm khi yên bình mà luôn đầy ắp những biến động. Với nghịch cảnh
(Xem: 2319)
Pháp thoại dưới đây Đức Phật dùng hình ảnh gương Pháp (Pháp kính) để khi soi vào vị đệ tử Phật biết chỗ thọ sinh.
(Xem: 2392)
Thói thường, đa số chúng ta những khi sung sướng, cuộc đời đang may mắn thành công, chỉ biết hưởng thụ lợi lộc, chìm đắm trong hoan lạc của ái dục.
(Xem: 2478)
Bài này sẽ viết về một chủ đề: cách tu nào đơn giản nhất cho những người có tâm hồn rất mực đơn sơ.
(Xem: 1952)
Người học Phật rất quen thuộc với ảnh dụ qua sông rồi thì bỏ ngay chiếc bè.
Quảng Cáo Bảo Trợ
free website cloud based tv menu online azimenu
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant