Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phật Giáo Và Sự Bình Đẳng Giới

18 Tháng Mười Một 202209:21(Xem: 2570)
Phật Giáo Và Sự Bình Đẳng Giới

Phật Giáo Và Sự Bình Đẳng Giới

Thích Trung Định

 Phật Giáo Và Sự Bình Đẳng Giới



Bình đẳng
 giới và trao quyền cho phụ nữ hiện đang được xem là yếu tố quan trọng đối với sự tiến bộ kinh tế, xã hội và dân chủ trong thời hiện đạiTuy nhiên tình trạng của phụ nữ còn nhiều bất cập, đa dạng và phức tạp. Trên toàn thế giới, còn có nhiều nơi sự kỳ thị giới tính vẫn đang là vấn đề nghiêm trọng chưa thể giải quyết một sớm một chiều. Một số vùng miền địa dư và tôn giáo còn có những luật lệ khắt khe đối với phụ nữ. Do vậy tiếng nói chân chính về bình đẳng giới cần phải lên tiếngvai trò của nữ giới cần được tôn trọng, làm cho một nửa thế giới có cuộc sống an vui và hạnh phúc và hưởng quyền lợi bình đẳng.

 Nền văn minh và sự tiến bộ của loại người đang tiến đến một sự dung hòa và bình đẳng. Quyền con người ngày càng được nâng caođời sống an sinh xã hội ngày càng được chú trọng thì quyền bình đẳng giới lại càng đề cao hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, trong xã hội loài người vẫn còn đó nhiều khuất tất, tiếng nói chân chính về quyền bình đẳng vẫn chưa hoặc không thể đến bởi còn nhiều rào cản, luật lệ và phong tục tập quán. Trong các vấn đề trên thì sự bình đẳng giới trong các tôn giáo đang còn nghiêm trọng, vì niềm tingiáo điều đã tạo nên rào cản lớn khó có thể giải quyết ngay được.

 Trong lịch sử của các tôn giáo, tiếng nói của phụ nữ hiếm khi được nghe thấy. Điều này xảy ra do tính gia trưởng của người đàn ông trong các xã hội trong đó các tôn giáo đã xuất hiện và cuối cùng đã kìm hãm sự thay đổi địa vị của phụ nữ. Các tôn giáo trên thế giới đều đồng ý về sự tôn trọng phụ nữ và vai trò quan trọng của họ trong cuộc sống gia đìnhđặc biệt là nhấn mạnh vào phụ nữ là mẹ và vợ. Tuy nhiên, dường như không phải tất cả đều ủng hộ hay trao quyền theo nghĩa đó. Chúng ta có thể nói một cách tự tin rằng trong nhiều tôn giáo, sự bất bình đẳng giới đã bị ảnh hưởng nghiêm trọng.

Phật giáo không giống như các tôn giáo khác. Vai trò và quyền hạn của phụ nữ được quan tâm một cách thích đáng. Khi chúng ta tìm hiểu lời dạy của Đức Phật về vấn đề bình đẳng giới mới thấy sự quan tâm rất lớn của Ngài đối với phụ nữ. Trong kinh tạng Nguyên Thủy cũng như Đại Thừa đều có đề cập đến vai trò của phụ nữĐặc biệt trong kinh tạng Pali vai trò làm mẹ, làm vợ được đề cập khá nhiều và cụ thểĐức Phật thừa nhận phụ nữ cũng có thể tu hành và đạt được thánh quả như nam giới.

Việc thành lập Ni đoàn tại Vashali, một quốc gia dân chủ cộng hòa thời Đức Phật đã nói lên quyền bình đẳng giới trong Phật giáo như thế nào. Đây được xem là cuộc cách mạng lớn và đầu tiên trong lịch sử loài người. Chưa từng thấy một tôn giáo nào đánh giá vai trò của phụ nữ như Phật giáo. Có thể nói rằng, cuộc cách mạng này đã mở ra cơ hội tiến thân của nữ giới trên con đường thực tập tâm linh cũng như các mối quan hệ khác trong xã hộiĐặc biệt cuộc cách mạng này diễn ra tại Ấn Độ, một đất nước chịu ảnh hưởng sâu đậm của tư tưởng Vệ đàvai trò của phụ nữ Ấn Độ thời bấy giờ rất thấp; thậm chí là không có một chút trọng lượng nào so với nam giới. Một số tôn giáo cho rằng, phụ nữ là nạn nhân của ái dục nên ra đường phải bịt mặt. Nho giáo cho rằng, nữ nhi ngoại tộc hay nhất nam viết hữu thập nữ viết vô. Chính những quan điểm kỳ thị này đã đẩy phụ nữ vào sự bế tắc, mất quyền con người đúng nghĩa.

Bằng chứng giáo lý

Cốt lõi của giáo lý Phật giáo là không có phân biệt kỳ thị giới tính và điều này vẫn nhất quán xuyên suốt trong lịch sử 2.600 năm qua. Một trong những giáo lý trung tâm của Phật giáo đó là học thuyết vô ngãGiáo lý này chỉ ra rằng mọi sự vật đều do duyên sinh, không có một thực thể cố định tồn tại độc lập bất biến. Do vậy, bản chất của con người là vô ngã thì không có sự phân biệt giới tính. Thứ hai, trong giáo lý Phật giáo, cả nam và nữ đều có khả năng đạt được Niết bàn mục tiêu cao nhất của Phật giáo. Trong Tương Ưng Bộ KinhĐức Phật tuyên bố“Tất cả mọi người dù nam hay nữ đều có thể tu tập trong giáo lý này và đạt được Niết bàn an lạc như nhau”.[1] Nghĩa là giáo lý của Đức Phật được mở ra cho tất cả mọi người đều có thể đạt được Niết bàn, nếu người đó thực hành đúng chánh phápphụ nữ cũng không ngoại lệ. Nhưng đôi khi Đức Phật cũng nhắc nhở cho phái nữ về đặc tính của mình. Trong Tăng Chi Bộ Kinh Đức Phật dạy rằng: “Phụ nữ không kiểm soát nổi cảm xúc, ghen tị, tham lam và yếu đuối trong sự thực hành thiền định và trí tuệ.”[2] Bởi vì Ngài muốn chứng tỏ rằng tình yêu và quan hệ tình dục là mối nguy hiểm cho việc thành tựu đạo quả.

Lời dạy trên của Đức Phật liên quan đến khả năng, tiềm năng giác ngộ của họ đã được Bộ pháp tụ (Dhammasaṅginī) mô tả như là một cuộc cách mạng thực sự trong nền văn hóa Ấn giáo gia trưởng thời bấy giờ. Tuy nhiên, một số bản kinh trong giai đoạn sơ kỳ nêu lên một vài hạn chế và khiếm khuyết của phụ nữ. Đã sinh ra làm người nữ là có năm chướng ngại không thể vượt qua được. Đó là: Người nữ không thể làm Phạm Thiên, không thể làm Đế Thích, không thể làm Ma Vương, không thể làm Chuyển Luân Thánh Vương, và không thể làm Phật.[3.]

Bằng chứng thứ ba ủng hộ sự bình đẳng của phụ nữ trong Phật giáo liên quan đến khái niệm nghiệp - đó là hành động tốt để tái sinh hạnh phúc, trong khi hành động xấu dẫn đến bất hạnh. Trong lý thuyết Phật giáo, ở mức độ là hành động hiện tại và không phải giới tính quyết định chất lượng cuộc sống trong tương lai, đàn ông và phụ nữ có thể được coi là ngang bằng với quy luật của nghiệp.

Đại diện phụ nữ trong văn học Phật giáo

Chân dung tích cực của các nữ tu trong văn học Phật giáo thời kỳ đầu bao gồmphụ nữ A la hán trong những câu chuyện được trích dẫn trong Trưởng lão Ni kệ được mô tả là người phụ nữ có thể đạt được trí tuệ và thành tựu thiền định. Mẹ của Đức Phật là Hoàng hậu Maya - người được mô tả là một phụ nữ gương mẫuđức hạnh và mẹ kế của Đức Phật Prajapati, người được mô tả là sùng đạo và thành tựu tâm linh trong Phật giáo khi trở thành nữ tu đầu tiên.

Văn học Mahāyāna và Vajrayāna được nhìn nhận thống nhất là không có vấn đề về sự khác biệt. Có một số hình ảnh phụ nữ tính tích cực trong văn học Đại thừabao gồm trí tuệ Ba la mật (Prajñāpāramitā), sự nhân cách hóa của sự tôn vinh trí tuệ hoàn hảo. Trong khi ở Vajrayāna, ngôn ngữ rất ưu tiên về sự thể hiện quan điểm nữ tính. Trong Thắng Man kinh, cho chúng ta thấy phụ nữ thành tựu trí tuệ và thực hành con đường Bồ tát đạo một cách xuất sắc. Kinh Thắng Man là một điểm sáng lớn đề cao đến vai trò của người Phụ nữ theo quan điểm của Phật giáo Đại ThừaCâu chuyện Long Nữ thành Phật trong kinh Pháp Hoa cho thấy sự bình đẳng trên con đường thực tập tâm linh là hoàn toàn có thể. Qua đó, chúng ta khẳng định được rằng, Phật giáo thực sự bình đẳng giới, và minh định rỏ trong các lời dạy của Đức Phật.

Trong văn học Pali, giáo lý chính của Đức Phật cho phụ nữ là một phương pháp giáo dục. Trong một số bài kinh chỉ ra rằng Đức Phật khuyên vua Pasenadi, không nên quá đau buồn rằng nữ hoàng Mallika, đã sinh ra một cô con gái. Ngài nhấn mạnh một đứa con gái có thể chứng minh thậm chí còn cao quý hơn cả một đứa con trai. Đức Phật cũng dạy con dâu Anathapindika về bảy loại vợ. Trong bài kinh SigalovadaĐức Phật đã đặt ra năm bổn phận của một người vợ đối với chồng mình.

Trong văn học Phật giáo ghi lại một số phụ nữ, những người đã tu học theo giáo lý của Đức Phật, đã đạt được mục tiêu này. Một số phụ nữ xuất gia trong hàng ngủ đệ tử Phật đã đạt đến quả vị A la hán. Bên Tăng có Thập đại đệ tử thì bên Ni cũng có Thập đại đệ tử xuất sắc tương tợ.

Sự thực hành trong Phật giáo

Có lẽ bằng chứng mạnh mẽ nhất cho sự chênh lệch giữa các giới tính từ một cuộc kiểm tra đời sống thể chế trong Phật giáobao gồm cả vấn đề xuất gia của các nữ tu. Phật giáo được ghi nhận là một trong những tôn giáo đầu tiên có một cơ quan có tổ chức của Ni đoàn. Trong một số bản kinh kể rằng, mẹ kế của Đức Phật, bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề dẫn đầu 500 phụ nữ khác trong hoàng triều Sakya đã đi bộ gần 200 km để đến Vaisaly để xin Đức Phật cho phép xuất giaBan đầu Đức Phật không cho, sau khi có sự can thiệp của Tôn giả A Nan Đức Phật mới chấp nhậnCâu chuyện ghi lại rằng, khi năm trăm phụ nữ trong hoàng tộc thành Ca Tỳ La Vệ đến xin Phật xuất gia. Đoạn đường đi bộ gần 200km làm cho bàn chân rớm máu. Thấy cảnh như vậy, Tôn giả A Nan xót thương bèn tìm lời thỉnh cầu Phật cho phép phụ nữ xuất gia.

Tôn giả lại bạch:

- Bạch Thế Tôn! Người phụ nữ, nếu đã từ bỏ đời sống gia đình để sống đời sống không nhà cửa, tinh cần tu tập theo giáo pháp và giới luật, có khả năng chứng ngộ được các thánh quả Tu đà hoàn, Từ đà hàm, A na hàm, hay A la hán không?

Đức Phật dạy:

- Này A Nan! Người nữ xuất gia cũng có khả năng chứng ngộ các thánh quả.

Được khích lệ bởi lời dạy ấy, Tôn giả đã đem hết lí lẽ, trọn tình, trọn lí, khẩn thiết trình bày lên Phật, cố xin giùm cho thái hậu và phái nữ được xuất giaNhận thấy đã đến lúc thích hợpĐức Phật bảo cho tôn giả A Nan biết, nếu thái hậu và đoàn người theo bà chấp nhận thi hành trọn vẹn Bát kỉnh pháp họ sẽ được phép xuất gia làm Tỳ kheo ni.

Tôn giả rất hoan hỉ, liền ra ngoài thông báo lời dạy của Phật cho thái hậu và các bà được biết. Thái hậu và tất cả mọi người đều vui mừng chấp nhận tuân hành Bát kỉnh pháp. Thế là ngay sau đó, thái hậu Kiều Đàm Di và đoàn người của bà được thọ đại giớitrở thành các vị Tỳ kheo ni đầu tiên của giáo đoàn Phật. Với sự kiện này, đức Phật được coi là vị giáo chủ đầu tiên trong lịch sử nhân loại đã thành lập một đoàn thể xuất gia cho nữ giới với đầy đủ giới luật.[4]

Mặc dù thừa nhận cho phụ nữ xuất gia và thành lập Ni đoàn nhưng đối với người nữ vấn có những dị biệt và khiếm khuyết. Do đó đối với giới luật của Tỷ kheo ni nhiều hơn sơ với Tỷ kheoTỷ kheo ni có thể ít được sự cúng dường hơn Tỷ kheo, và tầm ảnh hưởng trong quần chúng cũng không thể sánh bằng Nam tu sĩ. Đó là điều tất nhiên, bởi thể trạng và tâm tánh của phụ nữ là như vậy.

Ngày nay, nhiều phụ nữ trở thành nhà lãnh đạo kiệt xuất, nhà nghiên cứu, khoa học, kinh tế là đã làm thay đổi diện mạo xã hội, từ đó khẳng định vai trò và quyền lợi của phụ nữ như tinh thần của lời Phật dạy trong kinh điển ghi lại.

Tóm lạichúng ta có thể nói rằng, Đức Phật có một thái độ rất tích cực và cách mạng đối với người phụ nữ. Ngài đã mở cánh cửa bất tử vì lợi ích ngang nhau của cả nam và nữ. Thực tế này được coi là một sự kiện quan trọng trong lịch sử của tôn giáo thế giới. Sự thành tựu tâm linh của nhiều nữ A-la-hán đã chứng minh lời tuyên bố linh thiêng của Đức Phật rằng giá trị của một người không phụ thuộc vào giới tính và nền tảng gia đình của họ, mà dựa vào là trí tuệ và đức hạnh của người đó.

Ghi chú:

[1] In Samyutta Nikaya, the Buddha states that : “Whoever has such a vehicle, whether a man or woman shall indeed by means of that vihecle, come to Nibbana”.  Xem Tài liệu học tập Thạc sĩ Phật họcĐại học Delhi.

[2] In Anguttara Nikaya runs that : “Womenfolk are uncontrolled, envious, greedy and weak in wisdom”. Xem Tài liệu học tập Thạc sĩ Phật họcĐại học Delhi.

[3]Năm chướng ngại của người Nữ, xem https://phatgiao.org.vn/tu-dien-phat-hoc-online/nu-tu-ngu-chuong-k39346.html

 [4] Hạnh Cơ, Ni Trưởng Ma Ha Ba Xà Ba Đề, https://thuvienhoasen.org/a28194/ni-truong-ma-ha-ba-xa-ba-de.

Thích Trung Định

Báo Giác Ngộ, số 1174

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2088)
Xưa nay, nhân loại vẫn mơ ước một thứ ngôn ngữ chung, một thứ ngôn ngữ trực tiếp phản chiếu và thông diễn mọi sắc thái của thực tại sống động
(Xem: 2495)
Giáo pháp tứ y trong đạo Phậtgiáo pháp nói về bốn phương pháp thực tập sự nương tựa (y cứ) dẫn đến giác ngộ giải thoát.
(Xem: 2478)
Giáo pháp của Đức Phật tuyên thuyết là một sự trải nghiệm sinh động mang tính ứng dụng rất thiết thực chứ không phải là những giáo thuyết
(Xem: 3066)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 2098)
Mặt trời khi xuất hiệnrạng rỡ, bừng sáng, dứt khoát xóa tan bóng tối để chiếm lĩnh cả không gian của thiên địa càn khôn. Mặt trăng thì không như vậy.
(Xem: 1982)
Từ cạnh tranh sinh tồn giữa các loài sinh vật, cho đến mâu thuẫn xã hội, hận thù tranh chấp, là những nét đặc trưng trong lịch sử tiến hóa, không chỉ riêng loài người.
(Xem: 2297)
Phật tử chúng ta được biết rằng, đã quy y Tam bảothọ trì năm giới ...
(Xem: 2120)
Hơn nửa đời người, hay cả cuộc đời, nếm đủ đắng cay buồn tủi, niềm vui thì khiêm tốn, nỗi buồn quá mênh mông. Chòng chành theo con thuyền thân phận, lúc tàn khoảnh khắc theo cổ máy thời gian, nhìn lại trong rêu phong tĩnh lặng, trên khuôn mặt nhiều nếp chập chùng của ưu phiền, mới hiểu rằng “Ta có đại hoạn do ta có thân. Nếu ta không thân sao có đại hoạn”.
(Xem: 2104)
Khi mà vật chất chi phối cuộc sống, khi mà kinh tế làm chủ đạo nồng cốt kiến trúc xã hội, đạo đức truyền thống dân tộc và nhân cách con người trở thành thứ yếu.
(Xem: 2414)
Đạo Phật nói cuộc đời là biển khổ mênh mông không có ngày thôi dứt, vì nhân loại lúc nào cũng...
(Xem: 2281)
Gần đây một báo cáo Trung tâm nghiên cứu Pew, bể tư duy lớn thứ ba ở Washington, DC, dự đoán rằng một số tôn giáo lớn trên thế giới sẽ mở rộng...
(Xem: 2350)
Sống trong tư duy phân biệt đối đãi ở đời không chuyện gì không phải thị phi (đúng sai).
(Xem: 2410)
Hằng năm vào ngày 28 tháng 6 lần lượt mỗi chùa tại Đức tổ chức sinh nhật cho Hòa Thượng Phương Trượng Tổ đình Viên Giác.
(Xem: 2106)
Từ lâu, trong đời sống an tịnh, mỗi hành giả đều tự biết làm đẹp mình bằng hạnh đầu đà giữ giới.
(Xem: 2246)
Thế giới quan Phật giáo chỉ ra mối quan hệ cơ bản của mọi sự vật hiện tượng là quan hệ nhân quả.
(Xem: 2370)
Ngày nay, thiền định không những được biết đến qua tên tuổi các vị Thiền sư, qua những công án thiền, mà còn thực sự đi sâu vào đời sống tu tập nội tâm của mỗi người.
(Xem: 2293)
Rốt cuộc một mình. Một mình thôi. «Trời cao đất rộng, một mình tôi đi, một mình tôi đi... Đời như vô tận. một mình tôi về, một mình tôi về... với tôi!»
(Xem: 1918)
Bao tao nhân, mặc khách; bao ngôn ngữ của con người đã không tiếc lời ca tụng về Mẹ. Mẹ của tôi. Mẹ của anh. Mẹ của con và Mẹ của tất cả mọi người.
(Xem: 2377)
Tình mẫu tử, một chủ đề quá quen thuộc, không chỉ là mạch nguồn cảm hứng bất tận trong...
(Xem: 2271)
Cứ mỗi độ Vu Lan về, những người con Phật lại nao nao lòng.
(Xem: 2455)
Khi nói đến chữ Hiếu chẳng mấy ai lấy làm xa lạ, vì nó đã trở thành truyền thống rất quen thuộcăn sâu vào tâm trí ngay khi còn bé.
(Xem: 2445)
Khi tu hành được một thời gian, có người thì ngày càng tăng trưởng đạo lực, Giới - Định - Tuệ thêm lớn nhưng ngược lại có người thì suy giảm, thối thất.
(Xem: 2590)
Quán niệm về nhân duyên hình thành đời sống chúng ta, hình thành con người xã hội, hình thành đất nước, và hình thành thế gian. Tất cả cuộc hình thành này đều từ nhân duyên.
(Xem: 2307)
Một buổi sáng, trước tiệm bán hoa, một thanh niên ngừng xe, định vào tiệm đặt mua một chậu lan, gửi tặng sinh nhật mẹ
(Xem: 2087)
Hít vào tâm tỉnh lặng Thở ra miệng mỉm cười An trú trong hiện tại Giây phút đẹp tuyệt vời.
(Xem: 2149)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2295)
Kinh Phật chỉ nói lên sự thật để cho mọi người cùng suy xét mà sống sao cho được hạnh phúc an lạc, lợi mình, lợi người.
(Xem: 2129)
Theo truyền thống ở châu Á, thiền địnhgiác ngộlãnh vực của những người xuất gia và người tu luyện yoga
(Xem: 2214)
Mọi người ai cũng biết đạo Phậtđạo trí huệ, từ bi, tôn trọng sự sống của muôn loài.
(Xem: 3720)
“Người ngu nghĩ là ác Khi ác chưa chín muồi Ác nghiệp chín muòi rồi Người ngu chịu khổ đau”
(Xem: 2175)
Sau hơn 2.600 năm hình thành và phát triển, Phật giáo đã có mặt trên 150 quốc gia và vùng lãnh thổ.
(Xem: 2276)
Có người cho rằng có một công việc tốt là lựa chọn của họ trong cuộc sống hạnh phúc.
(Xem: 2748)
Khi gặp chuyện muộn phiền, khó khăn, hay gặp lúc bế tắc, khó xử, người ta thường buột miệng mà nói ra 2 chữ: “Tùy duyên”.
(Xem: 2372)
Xưa nay, hành giả nào chọn cuộc sống tu hành theo chân Phật hướng đến giác ngộ giải thoát, đều phải học những lời Phật dạy, gọi là Pháp học.
(Xem: 2171)
Cuộc sống của con ngườivạn vật chung quanh biến đổi từng giờ từng phút theo không gianthời gian.
(Xem: 2321)
Chúng ta" giống như cây. "Chấp thủ" giống như dây leo. Nếu như ta khao khát được ngắm cảnh, thì cảnh chập chờn quanh mắt ta.
(Xem: 2639)
Nhiều người lấy cái lí "Phật tại tâm" nên không bao giờ đi chùa, lễ Phật, tụng kinh hay tìm hiểu giáo lý.
(Xem: 2279)
Tôi ngồi đây lắng nghe quý thầy cô tụng bài kinh Bát Nhã thật hay.
(Xem: 3159)
Chúng ta không nên quá bận lòng với những việc tốt xấu, đúng sai của thế gian, chỉ cần quản lý tốt
(Xem: 2359)
Sống trong đời, mỗi người nếu khôngthiện tâm nuôi dưỡng thì đời sống sẽ trở nên bức bách; con người sẽ sống mà không có hạnh phúc an lạc.
(Xem: 2120)
Tu căn là một trong những pháp hành quan trọng của giáo pháp Thế Tôn.
(Xem: 2314)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2614)
Phiền não vô lượng, nghiệp chướng vô cùng nhưng nếu nắm trong tay chìa khóa chánh niệm, tỉnh giác...
(Xem: 2408)
Theo thuật ngữ Phật giáo Tàm – Quý có nghĩa là biết hỗ thẹn, biết liêm sĩ.
(Xem: 2228)
Con người từ khi ra đời đã tồn tại “cá nhân” hay “cái tôi”. Thế nên, rất cần phân biệt “cá nhân hay cái tôi là thực kiện” và “cá nhân hay cái tôi do suy tưởng”.
(Xem: 2045)
Phật giáo, một con đường lý tưởng đi vào lòng dân tộc Việt từ ngàn xưa, trở thành một nếp sống tâm linh thuần thiện và tịnh khiết
(Xem: 1773)
Chúng ta đang sống trong cõi dục, sinh ra từ tham ái nên mọi người, mọi loài trên thế gian này đều chịu kiềm tỏachi phối của dục vọng.
(Xem: 2705)
Trong hàng đệ tử của Đức Phật, có một vị tăng hình dung xấu xí, lùn thấp, không chút nào hảo tướng, nên người mới gặp ...
(Xem: 2306)
Cái chết của những người thân yêunghiệp chướng của tôi hay của họ? Cuộc sống của chúng ta luôn tương tác và phụ thuộc lẫn nhau, và...
(Xem: 2760)
Một người đàn ông ngã bệnh và tìm đến bác sĩ. Vị bác sĩ khám cho bệnh nhân này và sau đó viết cho anh ta một toa thuốc trên một mảnh giấy.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant