Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thanh Tao Như Trà

19 Tháng Giêng 202308:57(Xem: 1627)
Thanh Tao Như Trà

Thanh Tao Như Trà

Thích Trung Hữu


tra


Không biết từ khi nào, có lẽ từ lâu lắm rồi, trà là một trong những thứ không thể thiếu trong các gia đình của người phương Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng. Như câu nói sau đây: “Quan môn thất kiện sự, sài, mễ, du, diêm, tương, thố, trà”. Nghĩa là trong nhà lúc nào cũng phải có 7 thứ là: củi, gạo, dầu, muối, tương, giấm, trà. Uống trà không chỉ là thói quen “Ăn xong uống một chén trà” mà còn là một truyền thống, một nét văn hóa “khách đến chơi nhà nhất định phải pha trà tiếp đãi” đã có từ lâu đời của người Việt ta. Và nhất là vào những dịp Tết đến thì trà càng không thể thiếu trong câu chuyện ngày xuân.

Có lần tôi tham dự cuộc thi viết về trà. Điều đặc biệt của cuộc thi này là nhuận bút và giải thưởng đều trả bằng trà. Khi cầm những gói trà được gửi từ Ban Tổ chức, tuy là giá trị vật chất không đáng bao nhiêu, nhưng sao tôi thấy vui lạ. Có lẽ do tôi nghĩ rằng đây không phải là trà bình thường mà là trà nhuận bút, tức là trà của những người hiểu và yêu trà. Tôi thỉnh thoảng cũng có viết bài đăng báo. Nhưng sao khi nhận nhuận bút bằng tiền, mặc dù cũng vui, nhưng niềm vui khi nhận nhuận bút bằng trà rất lạ, cứ như cung đàn ngân nga, rộn rã mãi trong lòng.

Tôi coi những gói trà nhuận bút đó còn quý hơn cả nhuận bút bằng tiền. Tôi vui là vì trong mối tương giao này mọi thứ không dùng đồng tiền để đo lường, để trao đổi, mà chỉ có những giá trị tinh thần thanh cao, trong sáng. Tôi có lần nói vui với huynh đệ rằng, ai phát minh ra tiền chính là tội nhân thiên cổ vì đã đưa nhân loại vào vòng tội lỗi, làm suy thoái đạo đức và bào mòn các giá trị nhân văn. Nhuận bút bằng trà, trong trường hợp này, là nhuận bút cao nhất, là sự kính trọng nhất đối với tác giả. Vì nếu trả bằng tiền thì coi thường trà quá. Trà sẽ có mùi tiền, và như vậy thì mùi vị của trà đã nhạt mất rồi, biến đổi mất rồi, trà sẽ không còn ngon nữa. Trả nhuận bút bằng trà phải chăng hàm ý rằng chúng ta hãy yêu trà bằng tình yêu thuần khiết thanh cao, và hãy tỉnh táo trước sự cám dỗ của cuộc đời, mà cụ thể là tiền bạc.

Vâng, bản thân trà là sự tỉnh thức. Tương truyền, có một lần trong khi đang ngồi thiền, Tổ Bồ Đề Đạt Ma bỗng ngủ gục. Ngài bực quá liền cắt mí mắt cho tỉnh ngủ. Mí mắt ấy rơi xuống đất và mọc lên thành cây được gọi là trà. Lá của cây ấy có tác dụng chống buồn ngủ, làm cho tinh thần tỉnh táo. Từ đó những người ngồi thiền thường hái lá trà uống để được tỉnh táo khi ngồi thiền. Có lẽ đây chỉ là truyền thuyết để giải thích tính “tỉnh thức” của cây trà chứ các nhà khảo cổ học phát hiện trà đã có hàng ngàn năm trước rồi, ở nhiều khu vực trên thế giới, trong đó có Việt Nam.

Trong lá trà có chứa hàm lượng caffeine rất cao nên giúp cho người uống trà có được đầu óc tỉnh táotâm trí sáng suốt. Cho nên tôi nghĩ rằng câu chuyện trên được viết ra với hàm ý nói về công dụng “thức tỉnh” của cây trà, cũng như mối liên hệ giữa trà và thiền hơn là sự thật. Trà làm cho ta tỉnh táo và thiền làm cho ta tỉnh thức, và cả hai có mối liên hệ mật thiết với nhauTuy hai mà một. Có lẽ vì vậy mà người Nhật coi thiền và trà là một. Ngày nay các nhà khoa học đã chứng minh chất theanine là một amino acid chỉ tìm thấy trong cây trà. Chất theanine kích thích hoạt động của alpha sóng não. Làn sóng alpha này xảy ra khi chúng ta tỉnh táo và thư giãn. Và thật thú vị là người ta cũng thấy ở những người có kinh nghiệm về thiền cũng có hiện tượng làn sóng alpha này ở trong não.

Khi người ta nói “Thiền trà nhất vị” chính là muốn nói đến tinh thầný chí của việc uống trà. Nếu ta không hiểu về thiền, không ngộ được thiền ý thì khi uống trà ta sẽ không cảm nhận được sự đồng nhất giữa trà và thiền. Khi uống trà lòng phải tỉnh, tinh thần phải thư thái, từ từ cảm nhận hương vị của chén trà để đưa lòng mình hòa vào cái tĩnh lặng, bình yên của vũ trụ bao la. Thiền và trà đều chung một mục đích, đó là tìm đến sự thăng hoa, thuần khiết và nhất là sự tỉnh thức của tâm hồn. Giữa cuộc sống xô bồ ngày nay, tỉnh thức là vô cùng cần thiết. Sống tỉnh thức là duy trì ý thức trong từng giây phút hiện tại trên mỗi công việc mà mình đang làm, không để tâm bận bịu với quá khứviển vông mơ tưởng đến tương lai. Tỉnh thức để biết rõ những gì đang diễn ra với mình và cuộc sống quanh mình. Tỉnh thức để tâm ý được minh mẩn để có được những quyết định sáng suốt để thành công và hạnh phúc hơn trong cuộc sống. Tỉnh thức để không bị cám dỗ bởi vị ngọt của ngũ dụclục trần vậy.

Với cái nhìn tỉnh thức ta thấy trà không chỉ là trà mà trà còn bao hàm những yếu tố không phải trà nữa. Theo giáo lý Duyên sinh của Phật giáo thì các hiện tượng thế gian hình thành là do nhiều điều kiện, nhiều duyên kết hợp lại. “Một là tất cả, tất cả là một”. Điều này rất thú vị khi ta ứng dụng vào việc uống trà. Ly trà mà ta đang uống không phải chỉ là ly trà mà ly vũ trụ, ly đất trời, ly nhân sinh, vì trong ly trà đó có đất, nước, không khí, có ánh nắng, ánh trăng, có sương mai, có người hái trà, có cả 4 mùa xuân hạ thu đông…, cũng như không biết bao nhiêu là câu chuyện vui buồn của nhân tình thế thái xung quanh những yếu tố đó.

“Ai hay trong một tách trà
Có hồ sen ngát mượt mà đưa hương”.

Và dĩ nhiên là phải có bản thân người đang thưởng thức trà là ta đây nữa. Ta là một phần của vũ trụ cũng như vũ trụ chứa đựng trong ta. Thấy được điều này ta thấy yêu thương đất trời, yêu thương mọi người và vạn vật hơn. Vì họ là một phần không thể thiếu trong ta. Ta không thể sống nếu thiếu họ. Họ tốt thì ta mới tốt. Và ta tốt ta cũng góp phần làm cho thế giới tốt hơn. Khi uống trà, nước trà đi vào cơ thể ta và ta với trà hòa lại làm một, trong trà có ta, và trong ta có trà, có vũ trụ đất trời, có tình người tình đời. Tất cả đều được chứa đựng trong một ngụm trà buổi sớm mai. Thật là vi diệu biết bao!

Uống trà còn là thú vui tao nhã, thanh cao. Thú vui cuộc đời nói chung có hai loại là thanh cao và không thanh cao. Thú vui không thanh cao là thú vui thiên về vật chấtchạy theo tình tiền danh lợitranh giành được mất hơn thua; nó bắt nguồn và cũng là nguyên nhân tạo ra sự ích kỷ và kết quả là đưa đến khổ đau cho mình và người khác. Còn thú vui thanh cao thì thiên về tinh thần, tình cảm, không ích kỷ tranh giành mà là chia sẻ. Càng chia sẻ thì niềm vui càng phong phú. Cho nên uống trà phải có bạn, trà tam rượu tứ. Nói uống trà là một thú vui thanh tao, bao hàm hai ý nghĩa. Một là bản thân việc uống trà là thanh cao và hai là uống trà làm cho tâm hồn người ta trở nên thanh cao. Rượu làm cho người ta say, tiền làm cho người ta mê, địa vị và danh tiếng làm cho tâm hồn người ta đen tối và gây ra tội lỗi; còn uống trà chỉ làm cho tâm hồn người ta tỉnh táo và thánh thiện hơn mà thôi.

Từ xưa đến nay có rất nhiều câu chuyện về trà nhưng chưa thấy có câu chuyện nào nói rằng người ta uống trà rồi gây ra tội lỗi cả, mà chỉ có những câu chuyện về sự cao quý của trà mà thôi. Đó là sự tinh tế trong Những chiếc ấm đất, là niềm vui bình dị nhưng thanh tao trong Chén trà trong sương sớm của Nguyễn Tuân, hay tách trà của Thiền sư Triệu Châu mời “uống trà đi” để nhắc nhở khách thiền hãy quay về với thực tại đang là, và câu thơ của văn nhân tài hoa Tô Đông Pha thời Bắc Tống “Trà, kính trà, kính hương trà” để khuyên mọi người không nên trọng phú khinh bần hoặc thấy người sang bắt quàng làm họ. Ngoài ra còn có không biết bao nhiêu là triết lý nhân sinh liên quan đến trà, chẳng hạn như: “Cuộc sống cũng giống như cách pha trà! Hãy đun sôi cái Tôi của bạn, làm bay hơi mọi Lo Lắng, pha loãng mọi Buồn Phiền, lọc đi mọi Sai Lầm, và bắt đầu thưởng thức sự Hạnh Phúc”. Khoa học còn chứng minh rằng trà rất tốt cho sức khỏe, như chống lão hóa và ngăn ngừa nhiều bệnh tật. Cho nên người xưa đã đúc kết công dụng của trà qua bài thơ sau:

Bán dạ tam bôi tửu,
Bình minh sổ tràn trà.
Nhất nhật cứ như thử.
Lương y bất đáo gia.

Nghĩa là:

Nửa đêm ba chén rượu
Sáng sớm một tuần trà
Mỗi ngày cứ như thế
Thầy thuốc không đến nhà.

“Nhất bôi xuân lộ tạm lưu khách, lưỡng dịch thanh phong kỷ dục Tiên”. Nghĩa là: Một chén trà xuân tạm giữ khách, một cuộc sống thanh bạch làm người ta muốn trở thành tiên. Trà không chỉ là thức uống tốt cho sức khỏe mà còn hàm chứa nhiều ý nghĩa và triết lý nhân sinh sâu sắc. Khi Tết đến, người ta mua những loại trà thật ngon để tặng nhau, và cùng với các loại bánh mứt, cùng nhau thưởng thức chén trà thơm mát như nhắc nhở nhau hãy sống mạnh khỏetỉnh thức và thanh tao… như trà.

Thích Trung Hữu

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2773)
Một người đàn ông ngã bệnh và tìm đến bác sĩ. Vị bác sĩ khám cho bệnh nhân này và sau đó viết cho anh ta một toa thuốc trên một mảnh giấy.
(Xem: 2549)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2245)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2669)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2546)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2378)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2681)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2457)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3276)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2334)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2426)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2560)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2480)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2558)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2235)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2597)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3068)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2666)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2731)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 3019)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2579)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2621)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4122)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2789)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3088)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3326)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2301)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2532)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2814)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 3018)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2887)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2631)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2642)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3202)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2665)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2281)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2402)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2494)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2610)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2703)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2766)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3286)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2573)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2137)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2613)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2061)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2837)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2933)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2967)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2734)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant