Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Xuân Nơi Cửa Thiền

18 Tháng Giêng 202308:49(Xem: 1924)
Xuân Nơi Cửa Thiền
Xuân Nơi Cửa Thiền

 Thích Phước Đạt

Xuan


Mùa xuân
 là mùa khởi đầu năm mới. Năm mới thường mở đầu bằng một mùa xuân mơ ước đầy khát vọng, hoài bão. Sự chuẩn bị cho trật tự vận hành mới được thiết lập ngay từ những ngày xuân sang để khép lại năm cũ, gọi là “tống cựu nghinh tân” để ta tự tin bước vào hiện tại, mở hướng cho tương lai. Đó là giá trị lớn nhất mà con người đón chào xuân trong sự an trú hạnh phúc của nguồn sống bất tận từ trong tự tánh vốn thanh tịnh và bình an nội tại của mỗi người.

Thế nên, Thiền sư Mãn Giác đời Lý mỉm cười nhiệm mầu khi xuân về hoa mai nở: “Đình tiền tạc dạ nhất chi mai” (Đêm qua sân trước một cành mai); còn Thiền sư Chân Nguyên, người có công chấn hưng Thiền học Việt Nam cuối thế kỷ XVII trong Yên Tử sơn Trần triều Thiền tông Bản hạnh thì giải bày:

“Hoa là vốn tính trạm viên
Bao hàm thiên địa dưới trên cùng bằng”.

Trong ý nghĩa đó, mùa xuân là mùa muôn hoa đua nở, mùa kết tinh sự tinh anh trời đất, mùa biểu tượng của sự an vui, hạnh phúc qua quá trình nỗ lực tự thân tu học, tự thân hành trì, tự thân giác ngộ của người con Phật. Trong niềm hỷ lạc vô biên của người con Phật, thấm nhuần Phật pháp, bạn sẽ thấy mùa xuân ngập tràn cõi lòng bởi cỏ cây hoa lá vươn hình hài lớn dậy, hương thơm quả ngọt tràn đầy, con người như thêm sức sống mới tuôn trào. Từ trong cõi lòng thanh tịnh của chính mình, bạn thật sự sống với tự tánh mùa xuân Phật giáo thường trú, chứ không còn vui buồn theo thời tiết biến chuyển. Bởi hơn ai hết, bạn là người thật sự an trú vào niềm vui Chánh pháp, khi tự mình đi theo Phật, theo Pháp, theo Tăng. Hay nói cách khác, bạn đang sống trong thế giới xuân của cõi thiền, bởi lẽ thiền là cuộc sống, ngoài cuộc sống không có cảnh giới thiền. 

Sống theo đạo thiền là sống theo mùa xuân thường tại, không bị cuốn bởi biến động đời thường. Trong Tiểu Bộ KinhĐức Phật thường dạy cho Bàhiya:“Trong cái thấy sẽ chỉ là cái thấy; trong cái nghe sẽ chỉ là cái nghe; trong cái thọ, tưởng sẽ chỉ là cái thọ tưởng; trong cái thức tri sẽ chỉ là cái thức tri. Đây là khổ diệt”. Thế nên, trước cõi xuân nồng ấm biến chuyển từng giờ từng phút của dòng đời tuôn chảy, nhà sư vẫn an nhiêntự tại, nhìn đời bằng đôi mắt như thị, lòng mỉm cười với thực tại “đang là” trong hạnh phúc vô biên của pháp lạc, giữa trần thế phù hoa. Rõ ràng, xuân đến, xuân đi, hoa rụng, hoa cười, bốn mùa đổi thay đối với Thiền sư vẫn thế thôi! Hơn ai hết, các Thiền sư thật sự hiểu và thấy sự vận hành các pháp là như thị tướng, như thị tánh, như thị thể, như thị lực, như thị tác, như thị nhơn, như thị duyên, như thị quả, như thị báo, như thị bản mạt cứu cánh. Cho nên, nhà sư an nhiên tĩnh lặng sống với mùa xuân thực tạichơn như quanh năm suốt tháng, chứ không phải mùa xuân thời tiết ba tháng một thời hay mùa xuân khát vọng, trông chờ ở tương lai xa xôi:

“Quá khứ không truy tìm,
Tương lai không ước vọng,
Quá khứ đã đoạn tận,
Tương lai thì chưa đến,
Chỉ có pháp hiện tại,
Tuệ quán chính nơi đây”.

(Kinh Đại Ca-chiên-diên Nhất dạ hiền giả)

Xem ra, các Thiền sư tự do tự tại trước sự chuyển xoay vạn hữu vô thường: “Nực thì đổ mồ hôi, lạnh thì run rẩy, sự đời có gì đáng nói, đáng vui, đáng buồn, đâu nhỉ”. Khi thuận duyên, niềm vui đến, Thiền sư không hân hoan tung hứng, khi nghịch duyên chướng ngạiThiền sư vẫn thản nhiên giáp mặt. Thậm chí ngay cả trước bến bờ sanh tử vô tậnthuyền Bát nhã vẫn lướt nhẹ trên biển khơi, mặc cho sóng to thác ghềnh. Bởi từ trong tâm khảm Thiền sưsắc thân ngũ uẩntứ đại cuộc đời, chính các vị vẫn an trú trong cõi xuân thường tại nhiệm mầu mà Thiền sư Chân Không cảm hứng:

“Xuân lai xuân khứ nghi xuân tàn,
Xuân lạc hoa khai chỉ thị xuân”.
(Xuân đến xuân đi ngỡ xuân hết
Hoa nở, hoa tàn chỉ là xuân).

 

Rõ ràngmột sinh thể hiện hữu trên cõi đời này cần phải tiếp cận sự thật như thế để lòng được bình an hạnh phúc. Do đó, mọi khái niệm phân biệt, sự dị biệt, phân chiết vốn thường hay bóp méo thực tại được các nhà sư hóa giải là lẽ thường tình. Vấn đề sanh tử đại sựNiết bàn an lạc, xuân sang tết đến, hạ nắng thu sầu, đông tàn gió lạnh chỉ là sự vận hành của các pháp theo lý duyên khởi mà thôi. Còn tâm lý thường tình của một người đời, thường hiểu rằng chính vận mạng của con người, một thực thể được giới hạn ở hai đầu sanh và diệt, đoạn và thường của không gian và thời gian; được quy nạp trong cặp phạm trù đi và đến, một và nhiều của tự thể và tha thể là lẽ thường tình có gì để nói để bàn với các Thiền sư đâu!

Thế mới biết các Thiền sư vượt lên tất cả để nhìn thấy cả. Nếu Krishmaurti trong Tự do đầu tiên và cuối cùng nói: “Không có vấn đề, không có vấn đề, có vấn đề thì giải quyết vấn đề” thì các Thiền sư tự tại vô cùng trước cảnh vật chuyển hóa không ngừng để vận hành các pháp: “Cứ để xuân đến, xuân đi, cứ để  hoa nở, hoa tàn” để rồi “đêm qua sân trước một nhành mai” thật tuyệt đẹp vô cùng như Thiền sư Mãn Giác chỉ dạy. Đây thật sự là mùa xuân hạnh phúc giữa đất trời ấm áp. Chỉ một cành mai qua đêm nay vẫn còn nguyên vẹn, một hạt sương long lanh trên đầu ngọn cỏ hôm nào của nhà sư Vạn Hạnh đã đủ in dấu tinh thần vô bố úy trước thịnh suy… Tất cả là chân như thể tánh thường hằng của vạn pháp, của mùa xuân thường tại nhiệm mầu.

Đến đây, Thiền sư thật sự sống với đời, chứ chẳng nói về đời qua những cảm nhận bình thường của ngữ cảnh, âm thanh đường nét màu sắc của sáu trần huyền ảoThiền sư nhìn thấy tất cả để chung sống với tất cả và quan trọng hơn là làm hóa hiện, thăng chứng từng sinh thể vận mạng con người trước dòng đời trôi chảyDĩ nhiên, đích thực đó là nếp sống bình nhật đời thường vượt ra ngoài sự cám dỗ trần thế thường hay vây bủa tâm thức con người. Một trái tim biết yêu thương đầy hiểu biết, một cái nhìn tuệ giác thuờng xuyên quán chiếu, tất cả sẽ an trú trong mùa xuân thường tại vĩnh hằng với nhiều nguồn sống an lạchoan hỷ. Kinh Tương Ưng tập 4, phần Hỷ Lạc đã ghi nhận nếp sống thường tại tràn đầy pháp lạc do thành tựu ba pháp:

“Này các Tỳ kheo, đầy đủ được ba pháp này, một Tỳ kheo ngay trong hiện tại, sống nhiều an lạchoan hỷ và tạo ra nguyên nhân bắt đầu đoạn tận các lậu hoặc. Thế nào là ba? Hộ trì các căntiết độ trong ăn uống và chú tâm cảnh giác.

Và này các Tỳ kheo, thế nào là hộ trì các căn? Ở đây Tỳ kheo khi mắt thấy sắc, Tỳ kheo không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì nhãn căn không được chế ngự, khiến tham áiưu bi, các ác bất thiện pháp khởi lên, Tỳ kheo tự chế ngự nguyên nhân ấy hộ trì nhãn cănthực hành hộ trì nhãn cănTương tự, khi tai nghe tiếng, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, thân cảm xúc, ý nhận thức các pháp cũng vậy.

Thế nào là Tỳ kheo tiết độ trong ăn uống? Ở đây Tỳ kheo chân chánh giác sát thọ dụng món ăn không phải để vui đùa, không phải để đam mê, không phải để trang sức, không phải để tự làm đẹp mình mà chỉ để thân này được an trú, được bảo dưỡng khỏi bị thương hại, để hỗ trợ phạm hạnh, nghĩ rằng: “Như vậy, ta phải diệt trừ các cảm thọ cũ, không cho khởi lên các cảm thọ mới và ta sẽ không có lỗi lầm, sống được an lạc”.

Và như thế nào là Tỳ kheo chú tâm tỉnh giác? Ở đây, này các Tỳ kheo ban ngày trong khi đi kinh hành hay ngồi, tâm trừ sạch các chướng ngại pháp. Ban đêm canh một, khi đi kinh hành hay ngồi, tâm trừ sạch các chướng ngại pháp. Ban đêm canh giữa, vị ấy nằm phía hông bên phải, trong dáng nằm con sư tử, hai chân để trên nhau, chánh niệm tỉnh giác, các ý tưởng thức dậy và trong khi đi kinh hành và ngồi tâm trừ sạch các chướng ngại pháp.

Này các Tỳ kheo, đầy đủ ba pháp ấy, Tỳ kheo ngay trong hiện tại, sống nhiều an lạc hoan hỷ và tạo nhiều nguyên nhân bắt đầu đoạn tận các lậu hoặc”.

Hay nói cách khác, khi thành tựu ba pháp nói trên là thành tựu đời sống thực nghiệm Giới Định Tuệ, hủy diệt các tâm lý tham sân si thường xuyên giáp giặp hằng ngày của một đời sống hướng nội tự thân. Tại đây, tiếng nói tri âm từ cõi xuân thường tại giữa người với người, giữa người và muôn vật mới có sự đồng nhất. Sự hộ trì các căntiết độ trong ăn uốngchánh niệm tỉnh giác chỉ là nếp sống vô cùng đơn giản mộc mạc nhưng luôn mang hơi thở mùa xuân đầy hương vị giải thoát khổ đau. Một hương xuân nồng ấm, thanh tao như thế sẽ tiếp nhận biết bao hạt giống tốt lành gieo vào tâm thức, làm ngăn che, hủy diệt các hạt giống ưu phiền dính kết bên trong thông qua cửa ngõ các căn đầy linh hoạt. Một đóa hoa lòng hé nở bên những cành mai vàng chào đón xuân sang khi người biết sống với nhau bằng một đời sống thiểu dục tri túc. Đây chính là chất liệu yêu thương kết nối những mảnh đời riêng biệt, những sinh mệnh nghiệp quả khác nhau chung sống trong ngôi nhà hòa hợp của từ bi và trí tuệTiết độ trong ăn uống nghiễm nhiên trở thành nếp sống biết chia sẽ và đón nhận những niềm hỷ lạc có mặt trong đời sống hằng ngày, làm thăng hoa đời sống phạm hạnh đầy hạnh phúc triền miên.

Một tâm thức rộng mở, trong sáng làm lắng dịu những tác nhân gây rắc rối từ bên ngoài đem vào trong tâm thức. Nó trở nên dịu ngọt, tươi mát, khi mỗi bước đi, từng lời nóiviệc làmhơi thở an trú bằng chánh niệm tỉnh giác. Trời sẽ xanh thêm, hương thơm quả ngọt lại trổ đầy, đâu đâu cũng hóa hiện nụ cười trên môi để sống hạnh phúc với đời. Tại đây, tuệ giác sẽ rọi chiếu hiện thực đời sống, mang hương ấm mùa xuân thường tại vĩnh hằng:

“Dù ngồi nơi cảnh trí trang nghiêm,
Hoặc ở chốn chùa chiền cô tịch,

Đâu cũng dòng phúc trang nghiêm”.
(Chân Nguyên Thiền sư)

Cho nên, Trúc Lâm Đại Đầu Đà cũng có cái nhìn cảnh xuân đồng điệu này rồi. Vẫn đôi mắt vô biên nhìn đời trong tuệ giáctâm hồn Thiền sư vút lên cao để bay vào chân trời vô tận của tánh không diệu hữu:

“Dương liễu hoa thâm điểu ngữ  trì
Hoa đường thiềm ảnh mộ vân phi
Khách lai bất vấn nhân gian sự
Chỉ bạn lan can khán thuý vy”.
(Chim nhẫn nha kêu, liễu trổ đầy
Thềm hoa chiều rợp bóng mây bay
Khách vào chẳng hỏi chuyện nhân thế
Cùng tựa lan can ngắm núi trời).
(Huệ Chi dịch)

Có gì để nói trước thực tại đang trôi chảy trong giờ phút hiện tiền khi hoa liễu nở rộ bên nhà, tiếng chim hót líu lo trong từng khoảnh khắc, mây vẫn bay trên bầu trời nắng xuân gió thổi nhè nhẹ. Dù nhà vẽ hay bóng trúc quét thềm có chăng đi nữa trong cõi sắc không này, chủ khách, khách chủ chỉ nhìn núi ngắm trời. Trong tự tánh uyên nguyên của cảnh vật hữu tìnhcon người sống trong cảnh xuân thường trụ, hát bài ca hạnh phúc cuộc đời.

Và như thế, chẳng có gì để hạ bút hay cất lời. Dù tiếng kinh cầu vang lên từ nơi cảnh trí trang nghiêm, chốn chùa chiền cô tịch, trên các nẻo đường thôn xóm, góc phố mái nhà hay ẩn tàng im tiếng bên từng trang sách kệ thơ. Tất cả chỉ là giai điệu mùa xuân cất lên trong cõi lòng xuân thường tại bằng cuộc hành trình thực nghiệm tâm linh. Phải sống bằng hơi mùa xuân đích thực khi làm hóa hiện ba pháp thành tựuHộ trì các căntiết độ trong ăn uốngchánh niệm tỉnh giác để mùa xuân thời tiếtmùa xuân khát vọng trở thành mùa xuân hạnh phúc. Hẳn nhiên, bạn sẽ mỉm cười với chính mình khi uống cạn dòng suối chánh pháp ngọt trong cõi xuân an lành như xưa kia ngài Ca Diếp mỉm cười thâm ý khi nhìn đóa hoa sen nở trong lòng bàn tay đức Phật ở hội Linh Sơn ngày xưa.

 

Chú thích:

Thượng tọaTiến sĩ Thích Phước Đạt – Ủy viên Hội đồng Trị sự, Phó ban kiêm Chánh Thư ký Ban Giáo dục Phật giáo Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

(Trích từ Tạp chí Văn Hóa Phật Giáo số 404)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2317)
Cái chết của những người thân yêunghiệp chướng của tôi hay của họ? Cuộc sống của chúng ta luôn tương tác và phụ thuộc lẫn nhau, và...
(Xem: 2779)
Một người đàn ông ngã bệnh và tìm đến bác sĩ. Vị bác sĩ khám cho bệnh nhân này và sau đó viết cho anh ta một toa thuốc trên một mảnh giấy.
(Xem: 2562)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2245)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2671)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2555)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2382)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2684)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2461)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3284)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2334)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2430)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2563)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2483)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2561)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2241)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2608)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3074)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2670)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2736)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 3029)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2581)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2625)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4138)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2794)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3093)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3331)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2304)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2536)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2823)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 3021)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2888)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2635)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2647)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3206)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2676)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2324)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2413)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2510)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2618)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2710)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2768)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3300)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2575)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2142)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2631)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2120)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2897)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2998)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 3030)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant