Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đức Phật Và Những Di Huấn Sau Cùng

04 Tháng Ba 202317:44(Xem: 1723)
Đức Phật Và Những Di Huấn Sau Cùng
Đức Phật Và Những Di Huấn Sau Cùng

Thích Thông Bảo

Chết Và Tái Sinh

Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn. Nhưng Ngài giữ tâm chánh niệm, tỉnh giác, chịu đựng cơn đau ấy, không một chút ta thán.

Ngài nói: “Ta nay đã già, đã thành bậc trưởng thượng, đã đến tuổi lâm chung, đã đến 80 tuổi. Này Ananda, như cỗ xe đã già mòn, sở dĩ còn chạy được là nhờ dây thắng chằng chịt, cũng vậy thân Như Lai được duy trì sự sống giống như chính nhờ chống đỡ dây chằng”. Mặc dù vậy, Ngài giữ tâm chánh niệm, tỉnh giác, chịu đựng cơn đau ấy, không một chút ca thán. Ngài vẫn không nghỉ ngơi mà tiếp tục đi giáo hóa. Trăn trở trước những vấn đềTăng đoàn chuẩn bị đối mặt khi Ngài sắp nhập diệt, Ngài tự nghĩ: “Thật không hợp lẽ nếu Ta diệt độ mà không có một lời với các đệ tử hầu cận Ta, không từ biệt chúng Tỷ-kheo”.

Qua đây có thể thấy được rằng, trước lúc đi xa, Thế Tôn vẫn muốn dặn dò lại chúng đệ tử xuất gia, những bậc sau này sẽ gánh vác trọng trách hoằng pháp lợi sinh. Nếu Ngài ra đi mà không di huấn, chắc chắn rằng Tăng đoàn sẽ bị xáo động, không biết nương tựa vào đâu, dẫn đến không hòa hợp. Những việc này đã thể hiện sự quan tâmtrách nhiệm của bậc Đạo sư.

Pháp và Luật là Đạo sư

Suốt hơn 40 năm hành đạo, Đức Phật chưa bao giờ xem bản thân mình là người thống lĩnh Tăng đoàn. Những điều cần thiết trên con đường giải thoát, Ngài đã chỉ dẫn mà không giấu giếm bất cứ điều gì. Ngài chỉ muốn các đệ tử cần phải nương vào Pháp mà tu tập, không cần thiết phải có người lãnh đạo. Vì vậy, Đức Phật dạy: “Này Ananda, chúng Tỷ-kheo còn mong mỏi gì nữa ở Ta! Này Ananda, Ta đã giảng Chánh pháp, không có phân biệt trong ngoài, vì này Ananda, đối với các Pháp, Như Lai không bao giờ là vị Đạo sư còn nắm tay (còn giữ lại một ít giáo lý bí mật chưa giảng dạy).” Những lời nhắc nhở cuối cùng của Đức Phật không nhằm để tôn vinh vai trò Đạo sư, cũng không xuất phát từ động cơ phát triển tôn giáo hay chủ thuyết của mình, mà chỉ vì lòng đại bi thương yêu đệ tử muốn cho họ được sớm thành tựu giải thoát.

Đức Phật từng dạy: “Các Đức Như Lai giảng dạy Chánh đạo, nhưng chính các ngươi phải làm việc của mình”. Có thể thấy rằng, Đức Phật đã tìm ra con đường đi đến giải thoát, Niết-bàn. Nhưng đi đến giải thoát, Niết-bàn đó hay không, chúng ta phải tự bước trên con đường ấy. Chính vì điều này nên Đức Phật không muốn bất cứ ai, kể cả những vị Tỷ-kheo đệ tử cũng không nên nghĩ Ngài là người điều khiển Tăng-già.

“Này Ananda, nếu trong các ngươi có người nghĩ rằng: ‘Lời nói của bậc Đạo sư không còn nữa. Chúng ta không có Đạo sư (giáo chủ)’. Này Ananda, chớ có những tư tưởng như vậy. Này Ananda, Pháp và Luật, Ta đã giảng dạy và trình bày, sau khi Ta diệt độ, chính Pháp và Luật ấy sẽ là Đạo sư của các ngươi”.

Ngài đối đãi hài hòa bao dung đối với chúng Tăng, không nghĩ mình là vị giáo chủ. Ngài cũng không muốn chúng Tăng ỷ lại vào mình, mà hãy lấy Pháp và Luật làm nguyên tắc sống cho cộng đồng Tăng-già. Cần phải siêng năng học hỏi giáo lý, trau dồi giới hạnhthực tập thiền định để mở mang trí tuệ, không cần phải bôn ba tìm kiếm sự giải thoát bất cứ nơi đâu. Lời giáo huấn rất thiết tha và nhân bản, con người là chủ nhân của chính mình, có thể tạo cho mình đời sống hạnh phúc hay khổ đau. Đức Phật không phải là một vị thần linh hay thượng đếquyền năng ban phúc giáng họa, hay ban cho mình sự giác ngộ. Nên đừng ỷ lại vào Ngài, Ngài không phải là người thống lĩnh Tăng đoàn. Vậy Tăng đoàn cần phải nương nhờ vào đâu để tu học, phát triển?

Nương tựa vào Chánh pháp

Giữa biển cả mênh mông, hải đảo chính là nơi bình yên cho tàu thuyền về nương tựa. Vì sợ những người sau đi tìm một người lãnh đạo để nương tựa hay một chân lý bên ngoài, nên trong những phút cuối cùng, Đức Phật dạy: “Này Ananda, những ai sau khi Ta diệt độ, tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa chính mình, không nương tựa một gì khác, dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa vào một pháp gì khác, những vị ấy, này Ananda, là những vị tối thượng trong hàng Tỷ-kheo của Ta, nếu những vị ấy tha thiết học hỏi”.

Chánh phápchân lý bất diệtĐức Phật đã thuyết giảng cho nhân loại. Chắc chắn rằng Chánh pháp không phải là một cái gì đó trừu tượng, mù quáng, tối tăm vượt ngoài khả năng hiểu biết của con người, mà đó là một thực tại và bất cứ một người nào cũng có thể đạt đến. Nó không bị giới hạn bởi không gianthời gian. Pháp mà Đức Phật dạy cốt để đưa con người từ tối ra sáng, từ vô minh đến trí tuệ. Ngài không bao giờ nói ra những điều chỉ để thỏa mãn tò mò tri thức. Quan điểm của Đức Phật tràn ngập tinh thần tự do, cầu thị và bao dung. Đức Phật bao dung đến nỗi không bao giờ dùng uy quyền để ra lệnh cho các tín đồ. Ngài chỉ khuyến khích chúng đệ tử việc này nên làm, việc kia không nên làm, chứ không hề ra lệnh bắt buộc.

Trong lời dạy đặc biệt quan trọng này, Đức Phật đã chỉ rõ và kêu gọi đừng nên tin tưởng hay đi tìm bất cứ một con đường nào khác, tránh việc cầu xin, dò dẫm mà đi nhầm đường, hãy nương tựa vào lời dạy của Ngài đã đúc kết để có thể hướng đến một tương lai tươi sáng. Chính Ngài trước kia cũng tự nương vào bản thân mình mà thành đạo. Nếu ai sống chú tâm trong sự tu tập, có chánh niệm trong tất cả mọi hành động, dầu không cầu xin được giải thoát thì vị ấy vẫn được giải thoát.

Ngài trao cho con người quyền được tự do, không có bất cứ một điều gì ràng buộc. Bởi vì con người muốn thoát khổ, thì chính họ phải làm điều đó. Đức Phật như là vị lương y, giáo pháp như thuốc chữa bệnh, có lương y và thuốc mà bệnh nhân không uống thì bệnh vẫn không lành, lỗi không phải do thầy thuốc mà do chính người bệnh. Cũng vậy, sự giải thoát tùy vào sự trực nhận chân lý, chứ không phải phụ thuộc vào sự cầu xin một ân huệ của thần linh hay quyền năng bên ngoài.

Cúng dường tối thượng

Vào đêm cuối khi Đức Phật trú tại rừng sala, các cây sala song thọ tự nhiên trổ hoa trái mùa tràn đầy cành lá, những đóa hoa này rơi lên, gieo khắp và tung vãi trên thân Như Lai để cúng dường. Những thiên hoa Mandàrava từ trên hư không rơi xuống, rơi lên, gieo khắp và tung vãi trên thân Như Lai để cúng dường. Bột trời chiên đàn từ trên hư không rơi xuống, rơi lên, gieo khắp và tung vãi trên thân Như Lai để cúng dường. Nhạc trời trên hư không trổi dậy để cúng dường Như Lai. Thiên ca trên hư không vang lên để cúng dường Như Lai. Những điều này không được Đức Phật ca ngợi. “Này Ananda, như vậy không phải kính trọng, tôn sùng, đảnh lễ, cúng dường hay lễ kính Như Lai. Này Ananda, nếu có Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, cư sĩ nam hay cư sĩ nữ nào thành tựu Chánh phápTùy pháp, sống chơn chánh trong Chánh pháp, hành trì đúng Chánh pháp, thời người ấy kính trọng, tôn sùng, đảnh lễ, cúng dường Như Lai với sự cúng dường tối thượng. Do vậy, này Ananda, hãy thành tựu Chánh phápTùy pháp, sống chơn chánh trong Chánh pháphành trì đúng Chánh pháp. Này Ananda, các người phải học tập như vậy”.

Những hoa thơm, vật lạ bên ngoài chỉ là hình thức tô bồi, nó sẽ không bao giờ tồn tại lâu dài và không đem lại giá trị nào cả. Cũng vậy, Ngài biết được sau này chúng Tỷ-kheo phần lớn sẽ chú trọng hình thức bên ngoài mà không đi chuyên sâu vào phần nội dung cốt lõi của sự tu tập, nên Ngài căn dặn rất kỹ. Từ sự đánh thức này, Ngài dạy chúng Tỷ-kheo cần phải tu tậpthực hành Chánh pháp. Đây mới là năng lực mạnh mẽ làm chuyển đổi phẩm chất xấu xa tồn tại trong con người của mình. Các hình thức bên ngoài chỉ là phương tiện mà thôi, còn tu tập hướng đến sự giải thoát cho chính mình mới là cứu cánh của người xuất gia. Thực hiện như vậy mới thật sự là cúng dường tối thượng theo lời Đức Phật dạy.

Làm lợi ích cho đời

“Này các Tỷ-kheo, nay những pháp do Ta chứng ngộ và giảng dạy cho các ngươi, các ngươi phải khéo học hỏi, thực chứng tu tập và truyền rộng để phạm hạnh được trường tồn, vĩnh cửu, vì hạnh phúc cho chúng sinh, vì an lạc cho chúng sinh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài Trời và loài Người”. Có thể thấy trước khi nhập Niết-bàn, Đức Phật cũng nhấn mạnh đến trách nhiệm của hàng xuất giatruyền bá giáo lý của Ngài đến với chúng sinh, lấy chúng sinh làm đối tượng để phụng sự. Ngài dặn dò hàng đệ tử xuất gia của mình phải khéo học hỏi, tu tập thì mới có thể đi truyền bá, phổ cập đạo giác ngộ cho nhân sinh, để cho Chánh pháp được trường tồn lâu dài, vì lợi ích cho số đông.

Pháp mà Đức Phật nhắc đến được xây dựng dựa trên nền tảng Giới, Định, Tuệ. Mối quan hệ của ba phần này không thể phân ly. Nhờ trí tuệ mới đưa đến đoạn trừ phiền não, ô nhiễm, giống như lưỡi gươm cắt đứt mối dây ràng buộc. Chúng ta chỉ có thể đạt được an lạc, hạnh phúc, lợi ích thật sự khi có trí tuệ, chứ không phải cầu xin một đấng nào đó ban rải bởi không thể chuyển hóa bằng niềm tin. Vì vậyĐức Phật nhấn mạnh chúng Tỷ-kheo cần phải học hỏi, tu tập thực chứng Chánh pháp để đạt được trí tuệ, đây mới là tài sản quý báu nhất của người tu. Vì khi thực chứng được Pháp, chúng ta mới có thể thoát ra khỏi đầm lầy khổ đau và có khả năng giải quyết những khổ đau mà chính chúng tanhân loại đang đối mặt. Từ đó mới có thể đi vào đời để phụng sự chúng sinh.

Có thể thấy rằng, Pháp mà Ngài chứng ngộ và giảng dạy là con đường của bi trí. Nếu con người có sự nỗ lực, chắc chắn sẽ đạt đến đích chân, thiện, mỹ. Muốn độ sinh trước hết phải học tập phương pháp cứu độ. Khi các vị Tỷ-kheo đã nỗ lực học hỏi giáo pháp thì cần phải dấn thân, vào trong thế gian hóa độ chúng sinh, mong tất cả chúng sinh đều hưởng được pháp vị giải thoát, chứ không phải cầu lợi ích cho riêng mình. Nếu Đức Phật và các đệ tử của Ngài chỉ chăm lo tu tập giải thoát cho chính mình mà tách rời với con ngườicuộc đời thì đạo pháp không còn lý do nào để tồn tại nữa.

Thiết lập hòa hợp

Để tránh chúng đệ tử về sau sẽ nghi ngờ các lời dạy của chư vị Trưởng lão, trước khi vào Niết-bàn, Đức Phật cũng đã dặn dò rất kỹ lưỡng. Mỗi lời nói được nghe từ bất cứ người nào, các Tỷ-kheo không nên vội tán thán hay hủy báng lời nói ấy mà mỗi chữ, mỗi câu phải được đem so sánh với Kinh, đối chiếu với Luật, nếu chúng phù hợp với Kinh, Luật thì những lời ấy là lời dạy của Thế Tôn.

Sâu sắc hơn nữa, Ngài cũng chỉ dạy những chi tiết nhỏ nhặt như: “Vị Tỷ-kheo niên lão hãy gọi vị Tỷ-kheo niên thiếu, hoặc bằng tên, hoặc bằng họ, hoặc bằng tiếng Hiền giả. Vị Tỷ-kheo niên thiếu, hãy gọi vị Tỷ-kheo niên lão là Thượng tọa hay Đại đức nếu chúng Tăng muốn, sau khi Ta diệt độ có thể hủy bỏ những học giới nhỏ nhặt”.

Đức Phật đề cao trên sự thấy đúng, hiểu đúng, lãnh hộithực hành để có kết quả chứ không phải dựa trên lòng tin. Cho nên, để giải quyết các mối nghi hoặc còn tồn đọng ở trong chúng Tỷ-kheo, Ngài dạy: “Này các Tỷ-kheo, nếu có Tỷ-kheo nào nghi ngờ hay phân vân gì về Đức Phật, Pháp, chúng Tăng, đạo hay phương pháp, thời này các Tỷ-kheo các người hãy hỏi đi. Sau chớ có hối tiếc: Bậc Đạo sư có mặt trước chúng tachúng ta không tận mặt hỏi Thế Tôn”.

Để tránh sự nghi ngờ, không hiểu rõ về giáo lý của các đệ tử, những giây phút cuối cùng, Đức Phật cũng ân cần hỏi han nếu có chỗ nào cần hỏi thì phải hỏi kỹ, để tránh phải hối tiếc về sau. Thông qua những câu nói nhẹ nhàng, đầy sự quan tâm của một người Cha trước lúc xa rời đàn con, có thể thấy Ngài gần gũi và chân thật hơn bất cứ ai trên cuộc đời này có thể thấy được bằng cảm quan. Ngài vẫn quan tâm đến các vị Tỷ-kheo, vì sợ họ còn có chỗ chưa thông hiểu. Những chi tiết nhỏ nhặt này có thể thấy sự vĩ đại của một người Thầy, người Cha lành của muôn loài.

Di nguyện cuối cùng

“Này các Tỷ-kheo, đây là lời Ta nhắn nhủ các ngươi. Các hành là vô thường. Hãy tinh tấn lên để tự giải thoát, không lâu Như Lai sẽ diệt độ”. Trong sự bao la của tâm trí con người, bất cứ khi nào chúng ta thấy được bản chất sâu sắc của một cái gì đó thì đó mới chính là thứ quý giá nhất. Thấy được bản chất của vũ trụ nhân sinhvô thường nên lời sau cùng Đức Phật đã nhắc đến các hành là vô thườngBởi vì Ngài sợ rằng, chúng đệ tử của mình sẽ bị lao vào vòng xoáy của cuộc đời, chịu sự biến đổi, nhấn chìm của không gianthời gian, nên Ngài đã nhấn mạnh sự vô thường của cuộc đời, nếu tinh tấn tu tập, vượt lên trên sẽ được giải thoát. Con người tự mình làm chủ mình, không có một thực thể hay quyền năng nào cao hơn có thể định đoạt số phận nó. Đức Phật khuyến khích chúng ta hãy nên cố gắng nỗ lực tìm sự giải thoát cho chính mình bằng cách nương tựa vào Chánh pháp. Vì rằng con người vốn có năng lực tự giải thoát mọi ràng buộc bằng trí tuệ nếu có chánh tinh tấn liên tục. Nếu không có sự nỗ lực tinh tấn thì không có việc gì thành tựu được, vì vậy tinh tấn là đức tính luôn luôn có mặt trên lộ trình tu tập từ bước đầu tiên cho đến khi đạt được mục tiêu cuối cùnggiải thoát.

Giáo huấn về sự vô thường của cuộc đời để khích lệ tinh thần thoát ly, đừng bám víu vào cuộc đời. Nhìn sự vô thường của cuộc đời, có hai thái độ xảy ra, một là vì cuộc đờivô thường nên tận dụng cơ hội để tu tập không để cho thời gian trôi qua một cách trống rỗng. Hai là vì cuộc đờivô thường nên vội vã hưởng thụ, sống buông thả không có trách nhiệm gì, thái độ thứ hai này là của hạng phàm phu không biết thánh đạo, không xu hướng thánh đạo. Lời khích lệ của Đức Phật đối với đệ tử rất thiết tha rõ rànghợp lý. Giáo pháp đã được dạy cần phải hành trì, đời sống ngắn ngủi đừng để trôi qua một cách vô ích. Phải tự mình nỗ lực tiến lên đừng ỷ lại vào ai, ngay cả chính Đức Phật, vì Ngài chỉ là người chỉ đường.

Đức Phật khuyên đệ tử không nên buồn rầu, những gì cần làm Ngài đã làm, những người đáng độ Ngài đã độ, các đệ tử cần tiếp tục chí hướng mà bậc Đạo sư đã vạch sẵn thì pháp thân của Như Lai thường trụ bất diệt. Tại rừng Sa-la, ngàn vạn người với đôi mắt thành kính tiễn đưa Thế Tôn, cho đến khi Ngài dứt lời nói cuối cùng, đôi mắt của ngàn vạn người vẫn dõi theo Ngài. Đó là lần sau cùng mà nhân loại còn thấy Thế Tôn trên cõi đời. Từ đó về sau, chỉ còn đó những bài pháp trầm hùng mà Ngài đã để lại cho đời. Có thể thấy Ngài là nhân cách tiêu biểu cho con người của mọi thời đại, mọi lãnh thổ. Cho dù chúng ta nhìn Đức Phật ở góc độ nào, pháp thân hay kim thân ngũ uẩn, có nhập diệt hay không nhập diệt thì suốt hơn bốn mươi năm hành đạo trên mọi nẻo đường của xứ Trung Ấn, những lời dạy mà Ngài để lại muôn đời vẫn mãi mãi là nguồn từ bitrí tuệ bất tận. Thực hành giáo pháp ấy sẽ được an lạc không chỉ cho bản thân mà nguồn năng lượng ấy còn lan tỏa ra toàn xã hội, giúp cho con người vượt qua bến đời trầm luân.

Những lời dạy cuối cùng của Đức Phật đã tác động đến Tăng đoàn thời hiện tại một cái nhìn tích cực hơn, nâng cao tinh thần tự giác, trách nhiệm, hòa hợp. Xoáy sâu vào tu tập cốt lõi Chánh pháp, chủ trương tự giải thoát là chính, đồng thời liên hệ chặt chẽ với xã hội để truyền bá Chánh pháp, thể hiện tinh thần độ tha. Tinh thần này đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến việc tu tập, sự hưng thịnh của Tăng đoàn và của Phật giáo từ quá khứ đến hiện tại và cho cả tương lai.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13670)
Con bé không chú ý đến câu hỏi của tôi, đang bận bịu thổi kẹo thành quả bong bóng nhỏ. Có lúc nó thổi không khéo, quả bóng vỡ gây một tiếng bụp nhẹ, để lại chất kẹo nằm vắt ngang đôi môi mọng đỏ.
(Xem: 13783)
Mùa đông năm ấy tuyết không rơi nhiều, nhưng cái lạnh vẫn theo sương khói ùa về làm xác xơ thêm cho khu rừng mới trải qua một mùa dông bão kéo dài trước đó.
(Xem: 14709)
Thuở xưa, có anh chàng đọc kinh nghe nói về Phật, thích lắm, quyết định đi tìm gặp Ngài bằng được. Anh chàng khăn gói quả mướp ra đi. Sau khi trải qua không biết cơ man nào là núi sông, thành phố, hầm hố gian nguy hiểm trở...
(Xem: 12681)
Khi nắng vội vã đổ về trên từng con đường, nhà cửa, phố phường, cây cối, sông ngòi và nắng cũng chan hoà, hong đầy tâm của người con Phật, bằng chất liệu tươi trẻ ấm áp.
(Xem: 13730)
Bà Chín hồi nào đến giờ vẫn vậy, vẫn quạnh quẽ sống mình ên trong cái chòi lá bên một ao sen trắng. Cả làng chỉ biết bà là người xứ khác trôi giạt đến, cách nay đã ba mươi năm.
(Xem: 14731)
Sau khi nói chuyện với cô bé tôi ra về. Wendy nói cô bé rất vui, và đúng là tôi thấy nhẹ nhõm hơn nhiều.
(Xem: 14964)
Từ ngàn xưa, Ấn Ðộ đã là thánh địa đối với người con Phật. Chính từ vùng đất lịch sử này mà những danh tăng Pháp Hiển, Huyền Trang, Nghĩa Tịnh... đã trở thành bất tử...
(Xem: 15040)
Chú Tư nhai với trâu, nhai một hồi thấy đúng là mình đang nhai cỏ; chú vừa nhai cỏ vừa ngước mắt nhìn trời xa xăm...
(Xem: 17917)
Có đôi lúc giữa đêm tôi tự hỏi mình có già cỗi quá không? Và mình đã thu lượm được những gì trên con đường mình đã chọn?
(Xem: 16036)
Khi ra đời, một cây bút chì luôn thắc mắc không biết cuộc sống bên ngoài xưởng làm bút chì sẽ ra sao bởi thỉnh thoảng nó nghe những người thợ làm bút chì nói chuyện với nhau.
(Xem: 15853)
Thủy tiên nhỏ bé, xinh xắn với hương thơm cao sang, cánh hoa trắng muốt, mọc từng chùm trên củ như loại hành tây. Những chiếc lá mịn màng đang vươn mình ra ánh sáng.
(Xem: 17482)
Cứ ngỡ hoa được thả từ đâu đó trên không trung xuống rồi đậu lên hàng rào. Hoa không thành chùm lớn, cách nhau vừa tầm xa, như họa sĩ thiên nhiên...
(Xem: 16588)
Mỗi năm, vào ngày trăng tròn tháng tư, chúng ta cung kính, hân hoan đón nhận Đấng Giác Ngộ ra đời. Đó là Đức Phật lịch sử, Đức Phật đã mang hình người để đến với chúng ta.
(Xem: 15904)
Trong các chùa thuộc Bắc tông, thường treo bức tranh một hành giả dữ tướng, cao to, quắc thước, râu hùm, hàm én, mắt lóe kỳ quang, mình vận cà sa, vai quảy một chiếc dép...
(Xem: 13459)
Cơn nắng giao mùa đã bắt đầu rực sáng; những tàng lá non xanh đã trở nên đậm sắc hơn; những cây phượng hồng vẫn còn nở rực; đằng xa trong vườn nhà ai...
(Xem: 14234)
Một chàng trai bị lạc giữa sa mạc rộng lớn. Anh mệt lả và khát khô cổ, sẵn sàng đánh đổi bất cứ cái gì chỉ để lấy một ngụm nước mát.
(Xem: 12503)
Thuyết pháp độ sinh suốt 49 năm, bỗng một ngày nhìn lại, thấy mình chưa nói một lời. Bất thuyết thị Phật thuyết! Chung thân ngôn, vị thường ngôn!
(Xem: 13006)
Nhiều năm thăng trầm trong cuộc đời, phần lớn chúng ta đều ý thức rằng những hấp dẫn lực bên ngoài sớm muộn gì cũng sẽ vỡ tan, chỉ có một cõi lòng bình anhạnh phúc...
(Xem: 16671)
Một người thanh niên đang ngồi trên một tảng đá gần nhà vào một ngày nọ. Một nhóm những người thông tuệ từ ngôi làng của anh ta đi ngang qua...
(Xem: 28850)
Một con cá nhỏ bơi lội tung tăng, thả nổi và ngoi lên mặt nước ngắm bầu trời xanh. Một lượn sóng ùa tới, nó đùa giỡn ngụp lặn với sóng...
(Xem: 19418)
Có một vị nam cư sĩ mỗi ngày thường hái hoa tươi trong vườn nhà mình đem đến chùa chí thành dâng cúng Phật. Một hôm, khi đem hoa đến điện Phật...
(Xem: 15006)
Con tin có Phật trên đời Phật luôn hiện hữu không rời chúng sanh Nhìn vào sự việc chung quanh Thật là kỳ diệu phải nhanh tu hành
(Xem: 11398)
Có một sự nhất quán, xuyên suốt trong lời dạy hướng dẫn kỹ năng thiền định của đức Phật, dù là Tứ niệm xứ (Satipatthàna) và Thân hành niệm (Kàyagatàsati)...
(Xem: 13679)
Mỗi buổi sáng ngày Tết nguyên đán, có một vị khách viễn xứ về thăm quê nhà. Vị khách đã đến chùa Kim Liên (Nghi Tàm, Hà Nội) lễ Phật, vãn cảnh chùa.
(Xem: 13811)
Có một người trung niên sau khi xuất gia trở thành một vị cao tăng, trụ trì một tu viện cách rất xa gia đình. Rất nhiều người ngưỡng mộ danh đức của ngài...
(Xem: 12909)
Thuở xa xưa có một chàng trai con của một vị Bà la môn (giai cấp "tu sĩ" cao nhất ở Ấn Độ) sống dưới triều đại vua Pasenadi, thuộc vương quốc Kosala.
(Xem: 19869)
Hạnh phúc chân chính liên quan đến tình cảm và trí huệ nhiều hơn. Hạnh phúc lệ thuộc vào lạc thú vật chất không vững bền, nay có mai không.
(Xem: 14917)
Ba chú tiểu dáo dác nhìn bốn bề xao động trong cặp mắt nai ngơ ngác. Dọc theo lề đường, ánh đèn xanh đỏ lập lòe về đêm...
(Xem: 13309)
Bóng con bé chạy dài theo bóng nắng. Thoắt cái nó đã mất hút sau đám ô môi rậm rạp. Vị thầy chỉ đi theo một đoạn. Nhìn những dấu chân nhỏ nhắn...
(Xem: 13900)
Rõ ràng, ở đời không có cái gì là toàn thiện, hoàn mỹ tuyệt đối cả. Được cái này thì mất cái kia là đặc tính chung nhất của vạn sự vạn vật.
(Xem: 11977)
Một người phạm hạnh thì giống như một viên bảo ngọc, như một tấm pha lê sáng trong, dù có đem bùn đen bôi lên cũng không thể nào làm dơ uế được.
(Xem: 14457)
Khi gặp mình mua 1000 đồng, trong bụng bà ấy được vui một chút, đó cũng là cách mình làm phước. Mình đem vui lại cho người khác, mình cũng sẽ được vui lây...
(Xem: 26922)
Ngày nay, tình yêu đã được hằng kho, hằng kho sách vở, báo chí, phim ảnh ca tụng như là một thứ “linh thiêng, thần thánh”, một nguồn hạnh phúc, hoan lạc đẹp nhất của kiếp người.
(Xem: 14142)
Nắng mùa hè ấm áp, giúp cho vườn hoa ở Canada cảnh sắc rực rỡ. Một hồ sen điểm vài cánh hoa hiếm quí tươi nhuần thanh khiết, làm ấm lòng người thưởng ngoạn.
(Xem: 18701)
Tùy duyên trong cuộc sống là sống mà không câu nệchấp trước bất cứ một sự việc nào dù đó là thuận hay nghịch trong cuộc sống.
(Xem: 13798)
Trong thời gian yên tu, một hôm bỗng dưng chúng tôi cảm thông được nụ cười nhẹ nhàng hiện trên môi Đức Phật và nụ cười tạm biệt của các thiền sư...
(Xem: 15713)
Bạn sẽ làm gì khi cuộc sống trao cho bạn những phiền toái không thể ngờ? Khi những dự tính không theo ý muốn? Bạn có chấp nhận nó...
(Xem: 16404)
Có phải là chúng ta cảm thấy sung sướng hạnh phúc khi ngày nay dù trên đất Mỹ, con cái chúng ta sống gần gũi trong một tiểu bang...
(Xem: 13693)
Ngày nay những gì chúng ta cần là sự chuyển hóa một cách căn bản trong nhận thức của chúng ta về con người là gì. Chúng ta phải từ bỏ ách nặng...
(Xem: 13531)
Trời đã về khuya. Trăng lên cao sáng vằng vặc trên bầu trời đen thẳm. Triều lẳng lặng bước vào bên trong phòng vẽ chưa đóng cửa...
(Xem: 18326)
Hắn cúp máy rồi, tôi cứ nằm yên đó ngó lên bức tranh mực Tàu trên vách. Ở đó có con thuyền hờ hững trên sông, chẳng biết sắp vào bờ...
(Xem: 12879)
Tịnh thất nằm bên triền núi, quanh năm vắng lặng, ít người lui tới. Cái quang cảnh vắng vẻ heo hút tạo cảm giác rờn rợn khi tôi đặt chân đến.
(Xem: 12541)
Năm đầu tiên đặt chân đến Mỹ, Lễ Tạ Ơn hoàn toàn không có một chút ý nghĩa gì với tôi cả, tôi chỉ vui vì ngày hôm đó được nghỉ làm...
(Xem: 12170)
Đã có người hỏi tôi câu hỏi này mà tôi không trả lời được: "Nói dân tộc Việt Nam có bốn nghìn năm văn hiến. Nhưng có thấy cái gì đâu!"
(Xem: 13393)
Sài gòn không có mùa thu để nhuộm thêm sắc vàng cho những chiếc lá còn lay lắt trên cành. SàiGòn cũng đâu có bầu trời thu trong và mát...
(Xem: 14260)
Sài gòn không có mùa thu để nhuộm thêm sắc vàng cho những chiếc lá còn lay lắt trên cành. SàiGòn cũng đâu có bầu trời thu trong và mát...
(Xem: 15573)
Mấy hôm nay, trời bắt đầu sang thu, thời tiết đã dần dần dịu lại, không khí mỗi lúc trở nên mát mẻ. Chỉ còn độ mươi ngày nữa thôi là đến ngày Lễ Vu Lan rồi.
(Xem: 17748)
Thử hình dung vào một ngày giữa năm Canh Dần 1920, Người đau nặng và trời nổi gió. Bên ngoài sấm rền, còn bên gối thì Người lấy ngón tay gõ nhịp...
(Xem: 13261)
Muốn hạnh phúc, mục tiêu chính của chúng ta là phải chiến đấu với những cảm xúc khổ đau này. Chúng ta chỉ có thể đạt được hạnh phúc khi chúng ta quyết tâmnỗ lực tu tập...
(Xem: 12108)
Trên con phố đìu hiu, buông rơi tình, mỏi mòn thả dài xuống làn sợi tóc sương ngon ngọt, thấm da buốt thịt, vì áo xanh tơ trời đã mòn mỏng theo năm tháng, không đủ để chở qua cơn giá lạnh...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant