Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Quán Thân Để Đi Đến Xả Ly

30 Tháng Năm 202319:23(Xem: 1409)
Quán Thân Để Đi Đến Xả Ly
Quán Thân Để Đi Đến Xả Ly

Ajaan Lee Dhammadharo
Diệu Liên Lý Thu Linh


Duyên Tam Bảo

Của báu
thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.

Tử thần liên tục thay áo cho ta - từ mắt, da, răng, tóc, v.v… - như một cách để cảnh báo rằng chúng ta sẽ được sơ tán đến một nơi khác. Nếu không chuẩn bị sẵn sàng, chúng ta sẽ gặp rắc rối khi lệnh sơ tán ập đến.

Thân này chúng ta đã vay mượn ở thế gian: Các chính chủ liên tục đến để lấy lại từng chút một mà ta không nhận biết. Thí dụ, tóc trên đầu ta: Họ lấy đi từng sợi và biến nó thành màu xám. Đôi mắt của ta, họ làm chúng mờ đi. Đôi tai của ta, họ che lấp từng chút cho đến khi thính giác của ta phai lãng. Răng của ta, họ lấy lại từng cái một. Cái răng này bắt đầu lung lay, rồi ngưng, rồi lung lay trở lại.

Dần dà họ còn bảo nha sĩ lấy hết răng ta ra. Các ông chủ này cũng cắt dần da thịt ta, làm cho các bắp thịt, da dẻ trở nên lỏng lẻo, nhăn nheo. Họ trì kéo cột sống của ta đến độ ta không còn có thể đứng thẳng lưng. Có người cuối cùng còn phải bò hay di chuyển bằng gậy, run rẩy, vấp ngã, rồi tìm cách đứng dậy, một cảnh nhìn thật đáng thương. Cuối cùng, thì các ông chủ cũng đích thân đến, đòi tất cả mọi thứ lại, cái mà chúng ta gọi là sự “chết”.

Nếu nhìn kỹ thân, bạn sẽ thấy không có gì tuyệt vời cả, ngoài bốn trạng thái khổ (bị xâm chiếm, bị tước đoạt). Cái khổ đầu tiên là từ các sinh vật: giun sán, vi trùng sống trong dạ dày, ruột, trong các mạch máu và lỗ chân lông của ta. Miễn làthức ăn cho chúng ở những nơi này, chúng sẽ luôn ở bên ta, sinh sản theo cấp số nhân, làm cho ta phát ban, nhiễm trùng. Bên ngoài thân thì có bọ chét, chấy. Chúng thích trụ lại với những ai không giữ thân thể sạch sẽ, làm cho da đỏ rát.

Trạng thái khổ thứ hai là từ các con ma đói, tức là, các thuộc tính của đất, nước, lửa và gió trong cơ thể. Đầu tiên chúng cảm thấy quá lạnh, sau đó quá ấm, rồi cảm thấy bệnh, rồi muốn ăn thứ này hay thứ kia. Chúng ta phải cung phụng chúng, phải chạy quanh quất để tìm thứ cho chúng ăn không dừng dứt. Nhưng chúng không bao giờ thấy đủ - giống như những con ma đói sau khi chết, không có ai cho chúng ăn. Các thuộc tính này tiếp tục làm phiền chúng ta, và dầu bạn làm gì, không bao giờ bạn có thể khiến chúng hài lòng. Đầu tiên chúng bảo thức ăn quá nóng, vì vậy bạn phải bỏ đá vào. Sau đó, chúng nói quá lạnh, nên bạn phải đem trở vào bếp. Tất cả là do sự mất cân bằng của các thuộc tính, đôi khi tốt, đôi khi xấu, chứ không bao giờ có trạng thái bình thường ổn định, làm cho chúng ta phải đau khổ đủ cách.

Tình trạng khổ, bị tước đoạt thứ ba là lãnh vực của những con quỷ sân giận. Thỉnh thoảng, khi bị bệnh hoặc mất trí, chúng ta trần truồng chạy tán loạn, giống như bị ma ám. Có người phải trải qua phẫu thuật để cắt cái này, hay hút bỏ cái kia, chân tay vùng vẫy, miệng rên la rất thảm thương. Có người nghèo đến nỗi họ không có gì để ăn; họ ốm đến nỗi lồi cả mắt, lộ cả xương sườn, đau khổ như những con quỷ tràn đầy sân hận không thể nhìn thấy ánh sáng thế gian. Trạng thái khổ thứ tư là địa ngục, là ngôi nhà của các vong hồn với rất nhiều nghiệp xấu. Họ phải chịu đựng bị đốt, bị đâm bằng gai, bằng chĩa ba sắt nóng đỏ.

Tất cả các loài động vật ta ăn - sau khi chúng bị giết và nấu chín - tập hợp lại với nhau trong dạ dày của ta và rồi hòa vào cơ thể ta với số lượng lớn. Nếu có thể đếm, bạn đã có bao chuồng gà, cả đàn gia súc và nửa biển cá trong đó. Dạ dày của ta rất nhỏ, nhưng dẫu ăn bao nhiêu, ta vẫn không thể làm đầy nó. Thêm nữa, ta còn phải cho nó ăn đồ nóng, giống như những người phải sống với lửa nóng ở địa ngục. Nếu không có lửa, họ không thể sống. Vì vậy, có một chảo đồng lớn cho họ. Tất cả các vong hồn khác nhau mà chúng ta đã ăn tập trung trong chảo đồng lớn trong dạ dày của ta, nơi chúng bị tiêu thụ bởi những ngọn lửa tiêu hóa, rồi sau đó chúng ám ảnh chúng ta: Sức mạnh của chúng xâm nhập khắp máu thịt ta, làm phát sinh tham, sân và si, khiến chúng ta cũng vặn vẹo như thể chúng ta bị đốt cháy bởi những ngọn lửa địa ngục. Vì vậy, hãy quán thân.

Thân của ai đây? Có thực sự là của ta? Nó đến từ đâu? Dù bạn quan tâm nó đến mức nào, nó sẽ không ở lại với bạn. Nó sẽ phải quay trở lại nơi nó đến: các thuộc tính của đất, nước, lửa và gió. Thực tế là nó có thể ở lại với bạn trong một thời gian nhưng phụ thuộc hoàn toàn vào hơi thở. Khi không còn hơi thở, nó bắt đầu phân rã, sau đó, không ai còn muốn đụng đến nó. Bạn sẽ không thể mang nó theo khi bạn ra đi. Không ai có thể mang theo tay, chân, cơ thể của mình. Đây là lý do tại sao chúng ta nói rằng thân không phải là ta. Nó thuộc về thế gian.

Riêng tâm, đó là cái làm điều tốt và điều ác, sẽ được tái sinh phù hợp với nghiệp của nó. Tâm là cái không chết. Nó chính là người trải nghiệm tất cả niềm vui và nỗi khổ. Vì vậy, khi nhận ra điều này, bạn nên làm càng nhiều điều lành, càng tốt cho bạn. Đức Phật đầy lòng từ bi nên dạy chúng ta làm theo cách này, nhưng ta không có nhiều từ bi cho chính mình. Chúng ta thích lấp đầy bản thân bằng đau khổ. Khi người khác dạy ta, không giống như ta tự dạy bản thân, vì người khác thỉnh thoảng mới dạy ta. Khả năng trở thành súc sinh, phàm phu hay chư thiên trên cõi trời, hoặc đạt được Niết-bàn, tất cả tùy vào ta, vì vậy chúng ta phải chọn cái mình muốn. Điều tốt đẹp ta đã tạo, sẽ đi cùng ta tới tương lai. Đây là lý do tại sao Đức Phật dạy chúng ta hành thiền, quán thân để đi đến xả ly.

Thân thì vô thường, khổ và vô ngã, không có gì là của chúng ta. Ta mượn nó một thời gian và sau đó phải trả lại. Thân không thuộc về tâm, và tâm không thuộc về thân. Chúng riêng biệt nhưng dựa vào nhau. Khi nhận thức được điều này, ta không còn lo lắng hay chấp trước nữa. Ta có thể buông bỏ thân, và ba đống sét gỉ - quan điểm về ngã, giới cấm thủhoài nghi - sẽ không còn trong tâm. Ta sẽ thấy rằng tất cả thiện và ác đều xuất phát từ tâm. Nếu tâm trong sạch, đó là điều tốt đẹp nhất trên đời.

Pháp không thuộc về ai cả. Đó là tài sản chung, giống như đất chưa quy hoạch. Nếu chúng ta không xác định chủ quyền bằng cách phát triển đất đai, nó chỉ là đất trống, đất không chủ, không có cây trồng. Nếu muốn đòi chủ quyền, muốn thực sự làm chủ, chúng ta phải phát triển đất đó phù hợp với luật lệ hiện hành. Lúc khó khăn - nghèo đói, đau đớn, bệnh tật và cái chết - thì ta sẽ có cái gì đó để nhờ cậy. Nếu chúng ta không tuân theo các nguyên tắc sống này, lại đổ lỗi cho Phật, Pháp, Tăng, và các giá trị tâm linh nói chung, vì đã không giúp đỡ chúng ta trong khi hoạn nạn. Điều đó sẽ ngăn cản chúng ta phát triển bất kỳ giá trị nội tại nào.

Tâm là yếu tố quan trọng nhất trong cuộc sống, yếu tố quan trọng nhất trên thế gian, vì nó là nền tảng cơ bản của giá trị nội tại. Nếu tâm tối tăm, uế nhiễm thay vì trong sáng, thuần khiết, thì cho dù chúng tabố thí, giữ giới hay thiền định đến mức nào, ta cũng sẽ không nhận được kết quả gì. Đức Phật biết rằng tất cả chúng ta sẽ phải ra đi (bắt đầu một cuộc sống mới sau khi chết), đó là lý do tại sao Ngài dạy chúng ta phát triển các giá trị nội tại như một cách để chuẩn bị hành trang. Chúng ta phải biết làm thế nào để đến được nơi ta muốn đến, y trang thế nào cho đúng cách, và thông thạo ngôn ngữ nơi mình đến. Chúng ta gửi tiền vào ngân hàng để có thể trao đổi. "Gửi tiền vào ngân hàng" có nghĩa là sự bố thí, cúng dường rộng rãi. Học ngôn ngữ có nghĩa là biết tuyên thệ quy y Phật, Pháp và Tăng. Hoàn thiện giới hạnh thì giống như có y phục thời trang để mặc.

Tuy nhiên, ngay cả khi chúng ta có tiền để trao đổi, trang phục chỉn chu, và thông thạo ngôn ngữ bản địa, nhưng về cơ bản ta buông lung - tức là, tâm ta lang thang khắp nơi, không có cơ sở tập trung – (thì) chúng ta vẫn không qua được cửa kiểm tra. Đây là lý do tại sao Đức Phật muốn chúng ta phát triển tâm trí càng nhiều càng tốt, làm cho chúng trong sáng, thanh tịnh. Khi tài sảncông đức nội tại của ta được hoàn mãn như thế, chúng sẽ lan truyền đến con cái và người xung quanh ta.

Tất cả mọi người đều có giá trị nội tâm như nhau, nhưng ai không biết khẳng định chủ quyền và phát triển chúng, sẽ không nhận được bất kỳ lợi ích nào từ đó cả.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 730)
Đức Phật, Ngài là con người, bằng xương bằng thịt, như bao nhiêu con người khác...nhưng Ngài là một con người giác ngộ, tỉnh thức...
(Xem: 745)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 742)
Trời có lúc nắng lúc mưa, người có lúc may mắn hoặc xui xẻo. Nhưng không có cái gì tự dưng sinh ra hay mất đi, tất cả đều có lý do của do của nó.
(Xem: 633)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 828)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1213)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1381)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 1102)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1444)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 912)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 811)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 917)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 931)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 896)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 924)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 1060)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 881)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 1022)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 1034)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 955)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 964)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 886)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1057)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 1003)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 925)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 1038)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 959)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 890)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 996)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 932)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1184)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 962)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1042)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1213)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1651)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1206)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1286)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1154)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 1008)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 964)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 997)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 847)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1532)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1396)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1371)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1312)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1407)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1361)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1507)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1380)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant