Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ta Xin Chào Ta

03 Tháng Bảy 202319:06(Xem: 1452)
Ta Xin Chào Ta

Ta Xin Chào Ta

Tiểu Lục Thần Phong

hoa sen 3


Thân thể đau nhức mỏi nhừ, từng đốt xương rã rời như rụng rơi, những sợi cơ dường đã xơ cứng vô dụng, không còn co thắt được nữa, vô số những mạch máu ở những chỗ xa tim tắt lịm rồi, duy những mạch quan trọng ở gần thì còn thoi thóp tí ti, nhịp tim gần như không còn đập, nó nhẹ còn hơi gió. Hai bàn chân đã lạnh ngắt và bất động, máu và dưỡng khí không còn cung cấp nữa, cứ thế cái lạnh từ từ lan tỏa lên đến ổng quyển, đầu gối là vùng giao thoa, khúc trên còn ấm như phía dưới lạnh hoàn toàn. Ta nằm yên bất động, ta vẫn tỉnh táo và đang quan sát cái luồng khí lạnh từ bàn chân đi ngược lên. Ta biết đây là giây phút sắp sửa ra đi, cái giây phút mà ai cũng phải nhận lấy dù sớm hay muộn. Ta biết mình đang từ bỏ cái thân xác này, một cái đãy da hôi thối mà mình đã cung phụng nó suốt mấy mươi năm nay. Tuy nhiên ta cũng biết nhờ cái đãy da này mà mình học hỏi được nhiều điều hay lẽ phải, học được “tứ diệu đế” mà Thế Tôn đã dạy, học được cách buông bỏ những gì không còn cần nữa. Ta đang áp dụng lần cuối đây!

Ta đang bỏ cái thân xác này, cái thân này đâu phải là ta, không phải của ta, cũng không là tự ngã ta. Chẳng qua ta và mọi thân xác khác đang mượn chút hơi ấm của nắng trời, một tí hơi trong lành của không khí, một vốc nước và một mớ đất của mẹ thiên nhiên để tạo nên cái thân xác hình hài này. Để duy trì nó ta đã mượn bao nhiêu là vật thực và những thứ vật dụng khác của đời sống, những thứ ấy có thể từ thiên nhiên, có thể từ công sức lao lực và trí óc của con người làm ra. Cái thân này đang biến hoại trong từng giây, tuy nhiên lúc trẻ thì không hay biết, hoặc có biết cũng chỉ thoáng qua và cho là chuyện lý thuyết trên sách vở. Giờ đây, ngay sát na này thì thật sự biết, đang buông bỏ vì cái hình hài này thật sự không còn cần nữa, giờ này nó thật sự vô dụng rồi.

Ta quan sát, quán niệm thật rõ ràng từng tế bào đang hoại. Gió đang xuất ra ngoài ngục tù thân xác, nước đang bốc hơi để hòa vào tự nhiên, lửa tắt dần để trở lại với nắng vàng và đất sẽ hóa mùn nơi đất mẹ. Cơn lạnh đã hoàn toàn chiếm ngự hai chân, như thế là hai chân đã hoàn thành sứ mệnh chạy nhảy đi đứng cả một đời, giờ nó thật sự không phải là ta, không phải của ta, không là tự ngã ta. Thần trí ta vẫn tỉnh táo, ta không buồn không vui, không hưỡn không gấp. Ta vẫn quán sát, bên ngoài thì vợ con, cháu chắt, bạn bè đang quân quần, kẻ thì sụt sùi khóc, người rớm lệ… Ta thấy mắc cười quá nhưng khôg đủ sức để mở miệng cười. Ta tự hỏi: “sao những người thân yêu của ta lại mê muội thế? Tại sao phút cuối tiễn ta lai khóc? Lẽ ra phải cười mà tiễn ta mới phải chứ? “. ta nghe có tiếng hỏi: “ có đau không? Cố gắng nhé!” điều nãy quả là mắc cười hơn bất cứ lời ngớ ngẩn nào khác, cố gắng mà làm gì? dĩ nhiên là phút giây cuối cùng này sung sướng hay đau khổ cũng chẳng có ý nghĩa gì nữa. Ta lại nghe lời tụng kinh ê a của ông thầy, trời ơi! Thì ra bài Tâm Kinh mà ta đã say mê xao xuyến cả một đời. Bài Tâm Kinh chỉ có hai trăm sáu mươi chữ mà dụng cả một đời không hết, đừng nói là một đời, đã bao đời nay dụng không hết và chắc chắn mai kia sẽ còn vô số đời dụng tiếp cũng không hết, khi nào mà giáo pháp của đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni còn ở thế gian này. Lời Tâm Kinh bay bổng tự dưng ta thấy sảng khoái lạ thường, thường ngày ta vẫn lẩm nhẩm tụng Tâm Kinh, cũng có đôi lúc ta thấy cao hứng nhưng chưa bao giờ thấy vi diệu như ở sát na này. Tâm Kinh tựa như đôi cánh chắp vào thần thức ta để ta vỗ cánh bay lên. Ta thấy đất trời quang đãng quang minh sáng lạn và thênh thang vô cùng tận. Ta thấy ta nhẹ nhõm và tự do như đám mây trắng đang bồng bềnh. Ta nghe thoang thoảng hương thơm, mùi hương chưa từng biết ở trong đời. Ta mơ màng thấy hoa trắng rơi rơi khắp không trung. Chao ơi! Ta thấy hoan hỷ đến choáng ngợp!

Cái xác tứ đại nằm đấy chợt nấc nhẹ, những người xung quanh chắp tay niệm hồng danh Phật thì thầm, lời niệm như sóng triều âm vỗ vào thần thức ta, đẩy ta, nâng ta lên cao vời vợi. Ta cảm nhận phần bụng cũng đã lạnh, lục phủ ngũ tạng chấm dứt những hoạt động cuối cùng. Ta cảm nhận có bàn tay của đứa con thân yêu sờ nhẹ lên ngực và nghe cả giọng khe khẽ của nó: “ngực ba còn ấm nhưng không nghe nhịp tim”. Tự dưng ta phì cười (dù thân xác không còn có thể mở môi hay cử động được), thì ra đứa con ta nó đang thăm dò, có lẽ nó cũng thuộc nằm lòng bài kệ:

Đảnh thánh nhãn sanh thiên

Tâm nhân ngạ quỷ phúc

Bàng sanh tất cái ly

Địa ngục cước môn xuất

Bài kệ vô danh, truyền tụng đã bao đời, người học Phật, tu Phật tin rằng: Nơi ấm cuối cùng trên thân thể là dấu hiệu cho biết nơi ta sẽ thác sanh. Nếu là nơi ấm cuối cùng trên đỉnh đầu tất sẽ sanh vào pháp giới thánh nhân, nơi ấm cuối ở hai mắt sẽ sanh thiên, còn ở chỗ tim thì tái sanh làm người. Điều đáng ngại nhất nếu nơi ấm cuối cùng mà ở bụng thì sẽ là ngạ quỷ, đầu gối thì xuống hàng súc sanh, hơi ấm mà xuất ở bàn chân thì đọa địa ngục. Căn cứ bài kệ này mà nhiều người cả tăng tục đều thường quan sát chỗ ấm cuối cùng trên thân thể của người sắp từ giã cõi đời.

Ta thấy vui vui, thì ra con ta cũng biết Phật pháp, nó đang áp dụng cái biết của nó, hóa ra nó không mê muội như bấy lâu nay ta tưởng. Thế là thân xác ta nhưng không phải ta, không phải của ta, không là tự ngã của ta từ bụng trở xuống đã xong một kiếp nhân sinh nhưng từ ngực trở lên thì chưa xong, vẫn còn ấm, hẳn đây là điềm lành, là cát tường!

Ta nhớ lúc còn học Phật, ta đã đọc đâu đó trong kinh sách nói: “ lúc lâm chung rất nhiều oan gia trái chủ đến đòi nợ, ma quỷ giả hình người thân dẫn dắt ta vào tam đồ lục đạo, hoặc giả chư thiên đến đón cũng đừng đi. Chỉ đi theo Phật mà thôi!”. Thế thì cái sát na này ta đem pháp học cả đời ra đề thực hành lần cuối. Ta chẳng thấy gì cả, tất cả chỉ là quang minh rạng rỡ, tất cả rỗng rang và thênh thang đến vô cùng, cái không gian rất đẹp chưa từng thấy bao giờ. Ta cảm nhận sự an lạc mà lúc sống thường ao ước. Ta nghe nói phải xả thọ dù là thọ khổ hay thọ lạc, nhưng lúc này ta đâu có thọ, chỉ là hiện tướng tự nhiên thế thôi!

Ta sắp buông cái túi da hôi thối đầy những hệ lụy phiền não. Ta sắp thoát ra khỏi cái ngục tù thân xác đã giam hãm ta suốt một đời. Ta sắp sửa làm mây trắng bay trong hư không vô cùng tận. Ta nhìn cái xác ta nằm bất động mà thấm thía lời Thế Tôn: “không phải là ta, không phải của ta, không phải tự ngã ta”.  Vậy có gì để người đời tiếc cái đãy da hôi thối này? Cớ sao chết rồi còn muốn lưu giữ nó? quả thật mê muội đến vô cùng! Ta mắc cười khi người ta ướp cái xác người như ướp cá mắn rồi đem chưng bày cho kẻ qua người lại ngắm nghía. Thời xa xưa ướp xác xây lăng thì còn có thể hiểu, thời hiện đại văn minh như hôm nay mà còn ướp xác xây lăng hay đắp mồ ta mả lớn thì mê muội biết đến dường nào! Phật nói vô minh thật chẳng còn từ nào hay hơn, chính xác hơn! Ta đã tiên liệu trước khi ta nằm xuống. Ta đã di chúc rõ ràng: “cái xác này không cần nữa, phần nào hữu dụng thì hiến cho khoa học hay y học để cứu người, phần còn lại thì thiêu đốt lấy tro bón cho hoa”. Ta không còn bận tâm gì về cái xác thối vốn không phải là ta, không phải của ta, không là tự ngã ta!

Ngày xưa còn trai trẻ, ta đã dự liệu và chuẩn bị tinh thần sẵn sàng cho giây phút cuối. Ta đã từng bảo rằng: “sẽ ra đi trong mùa hạ biếc xanh cây đời, nắng gió thênh thang; sẽ ra đi trong mùa thua ràng rực rỡ đất trời, cảnh sắc muôn hồng nghìn tía của một góc trần gian hóa vường địa đàng. Ta cũng đã từng viết sẽ ra đi lúc mùa đông tuyết trắng, sẽ ngồi bên lò sưởi lửa hồng ngắm nhìn bông tuyết bay mà thở ra hơi thở cuối cùng. Ta đã mơ ra đi trong mùa xuân với sắc hương tưng bừng của muôn hoa”. Giờ đây, giây phút cận kề giữa hai thế giới, ta nhớ lại tất cả những điều ấy và ta thấy đất trời quang minh hiện rõ cả cảnh sắc bốn mùa. Ta hoàn toàn mãn nguyện, chỉ còn một sát na nữa thôi ta sẽ hóa và ánh sáng, nhập vào mây trắng mà ngao du mười phương thế giới. Suốt quãng đời qua ta đã cảm nhận sự tù túng búc bách và ngột ngạt vì bị giam hãm trong thân xác này! Thôi nhé, ta chào ta! Ta chào cái thân xác không phải ta, cũng không của ta và càng không là tự ngã ta.

Ta nghe có tiếng người con nói: “lạnh toàn thân nhưng tim và trán ấm lắm!” rồi nó hướng mắt chỉ cho mọi người nhìn ra ngoài trời: “tự nhiên rời đất quang minh rực rỡ lạ thường, phải chăng là điềm cát tường khi ba đi?”. A! Thế thì bước cuối cùng của cuộc trăm năm, ta chào ta vậy! Chỉ còn sát na này nữa thôi! Ta nhìn lại những người thân lần cuối, ta nhìn cái xác ta nhưng vốn không ta. Ta nghe lời Tâm kinh và chào giã biệt tất cả mọi người.

 

Tiểu Lục Thần Phong

Ất Lăng thành, 0623

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1180)
Trí tuệ giống như ánh sáng, và có ba cấp độ:
(Xem: 741)
Chúng ta thường nghe dặn dò rằng, hãy tu đi, đừng nói nhiều, đừng lý luận nhiều, đừng dựa vào chữ nghĩa biện biệt sẽ dễ loạn tâm
(Xem: 844)
Trước khi tìm hiểu chủ đề “Nương thuyền Bát nhã là gì? ”, chúng ta cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của từ Bát nhã.
(Xem: 800)
Từ “Phật” (Buddha) đã được biết đến và lưu truyền trước khi Đức Phật xuất hiệnẤn Độ.
(Xem: 761)
Đức Phật, Ngài là con người, bằng xương bằng thịt, như bao nhiêu con người khác...nhưng Ngài là một con người giác ngộ, tỉnh thức...
(Xem: 770)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 776)
Trời có lúc nắng lúc mưa, người có lúc may mắn hoặc xui xẻo. Nhưng không có cái gì tự dưng sinh ra hay mất đi, tất cả đều có lý do của do của nó.
(Xem: 669)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 937)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1248)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1416)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 1156)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1476)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 941)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 849)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 953)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 974)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 939)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 967)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 1091)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 914)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 1059)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 1054)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 976)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 1013)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 932)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1091)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 1039)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 959)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 1059)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 984)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 925)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 1025)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 964)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1210)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 992)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1084)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1235)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1673)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1242)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1314)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1187)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 1046)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 1007)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 1030)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 884)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1560)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1435)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1406)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1346)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant