Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phật Dạy Về Pháp Thiểu Dục Tri Túc

14 Tháng Chín 202317:53(Xem: 1329)
Phật Dạy Về Pháp Thiểu Dục Tri Túc
Phật Dạy Về Pháp Thiểu Dục Tri Túc 

Tịnh Khả

thieu duc tri tuc


Sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật đem đến nhiều lợi ích cho xã hội, giúp con người cải thiện đời sống vật chất, đưa con người lên một tầm cao mới, là cơ hội quý báu để một dân tộc, một đất nước vương lên kịp sánh vai với các cường quốc năm châu trên thế giới. Thế nhưng, khoa học kỹ thuật phát triển càng cao bao nhiêu thì đời sốngtinh thần lại chậm phát triển bấy nhiêu. Sự phát triển này khiến cho các mối quan hệ càng ngày càng tách lìa nhau, vật lý học chẳng liên quan tâm lý học, kinh tế xã hội học chẳng dính dáng gì đến đạo đứchọc, không có một đường hướng thống nhất. Con người mạnh ai nấysống, mạnh ai nấy phát triển, khiến nảy sinh cái phi đạo đức là điều tất yếu, đe dọa mạng sống của nhân loại. Sự phân tán đó không ở đâu xa, nó phản ánh ngay trong chính xã hội mà ta đang sống, hệ quả là nhân loại ngày nay đang đứng trước sự mất quân bình giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần. Sự mất quân bình này khiến cho đời sống đạo đức dần đi đến sự diệt vong, vì ít ai quan tâm đến nó. Do đó, đề ra phương pháp giúp cải thiện đời sống tinh thầnchấm dứt sự mất quân bình này là một vấn đề vô cùng phức tạp, nan giải, trong xã hội hiện nay.
 

Nguyên nhân chính dẫn đến sự mất quân bình này là do lòng mong cầu, tham muốn vô độ của bản thân chúng taCon người chạy đua theo vật chất, vô tình khiến cho những giá trị đạo đức bị đẩy lùi, xuống dốc. Người đời đa số thường bị năm thứ: tài, sắc, danh, thực, thùy chi phốitrói buộc bản thân. Một khi đã tham muốn những thứ ấy, thì cuộc đời của những kẻ ham muốn kia, chỉ biết lao theo vòng xoáy và bị chôn vùi trong sự ham muốn của mình, làm nô lệ cho vật chất, bị vật chất sai khiến. Pouchkin từng nói: “Càng nhiều sự cần dùng càng thêm bó buộc, bỏ được cần dùng nào là nhẹ đi một ít. Sung sướng phải tìm trong cái giản dị, biết nhịn những cái không thực cần, thực có”. Lòng tham muốn nhiều thì khổ nhiều, tham muốn ít thì khổ ít, không ham muốn thì không có khổ. Bớt một phần ham muốn là thêm một phần an vui. Phải biết gốc của tham dục là khổ mà ta cứ tưởng là vui, gốc của ái dục là khổ mà ta cho là sướng, thật tính của các pháp là vô thường mà ta nghĩ là thường. Cho nên tiền bạc của cải chỉ là phương tiện để cho cuộc sống tốt hơn, mà ta cho là mục đích sống, là giá trị là tất cả, rồi ta cứ lao đầu chạy theo nó để được cho nhiều, vì thấy biết sai lầm như vậy nên ta bị trôi lăn trong sinh tử luân hồi, chịu vô lượng khổ từ kiếp này sang kiếp khác.

Phương pháp duy nhất để diệt trừ lòng tham muốn này, là áp dụng theo lời Phật dạythực hànhhạnh “thiểu dục và tri túc”. Trong kinh Di Giáo có nói: “Tri túc chi nhơn, tuy ngọa địa thượng du vi an lạc, bất chi túc chi nhơn, tuy xứ thiên đường diệt bất xưng ý”. Nghĩa là: Người biết đủ, dù nằm trên đất cũng vẫn thấy an lạctrái lại, người không biết đủ, dù ở cung trời cũng không vừa ýĐạo Phậtdạy thiểu dục và tri túc cốt yếu là để ngăn ngừa con đường trụy lạc, chặn đứng lòng tham lam, không bờ bến của chúng sanh, chứ không phải chủ trương ngăn chặn sự tiến triển của con ngườixã hộiPhương pháp này sẽ làm yếu dần tâm tham lam, nên các dục vọng dần dần tiêu diệt. Một khi con người hết chạy theo dục vọng, hết đuổi bắt những hạnh phúc vật chất tạm bợ, giả dối cũng không đào bới thêm đau khổ của người khác, để tìm hạnh phúc cho mình nữa, thì lúc ấy hạnh phúcchân thật liền đến với họ. Cho nên hạnh “ít muốn” và “biết đủ ” chẳng những không đưa con ngườivào con đường thối hóa, mà ngược lại còn giúp cho sự tiến hóa của nhân loại.

Thiểu dục: là ít muốn. Tri túc: là biết đủ. “Thiểu dục tri túc”, tức là ít ham muốn và biết đủ. Pháp này thuộc về lĩnh vực đạo đứcgiới hạnh, được đức Phật chứng nghiệm sau thời gian sáu năm khổ hạnh rừng già, bốn mươi chín ngày đêm thiền định, Ngài thấy được con đường trung đạo là từ bỏhai trạng thái khổ hạnh thái quá và sung sướng thái quáĐức Phật không khuyên hàng đệ tử mình phải tu khổ hạnhép xác hay sống một cách sung sướngtrụy lạcCon đường đó không đưa đến sự giác ngộ an vui, nó đơn thuần là một sắc thái, một thái độ tâm lý, một con đường trung đạo mà Ngài thấy được.

Một lầnđức Phật hỏi một vị Tỳ-kheo đã từng chơi đàn trước khi ông xuất gia:

“Dây đàn mà chùng quá, có đàn ra tiếng không?

Thưa không.

Nếu dây quá căng thì sao?

Thưa, dây bị đứt.

Nếu lên dây đàn vừa phải thì sao?

Thưa, có thể đàn lên những nốt nhạc tuyệt vời”!

Như vậy, thiểu dục tri túc trước hết không phải là một chủ trương mang tính khổ hạnhép xác, điều mà có quá nhiều người lầm tưởng. Thiểu dục là đối với  những cái chưa có, mà vì nhu cầu bản thânvì lợi ích cho mình và nhiều người mà mong cho có, thì chúng ta nên thọ dụng. Không vì tham vọng nung nấu trong lòng, để mong cầu cho nhiều. Tâm càng mong cầu bao giờ cũng thấy mình càng thiếu thốn, không thiếu món nầy lại thiếu món kia, cảm thấy khổ sở, khó chịu. Đừng lầm tưởng rằng một khi lòng tham muốn được thỏa mãn, là hết tham muốnNgạn ngữ có câu: “bể kia dễ lấp, túi tham khó đầy”, lòng ham muốn không chỉ gây hại cho con người về vật chất và tinh thần, có khi nó còn làm cho con người đánh mất cả nhân cách và lòng tự trọng của chính mình.

Người thế gian thường đem tài sảndanh vọngđịa vị của mình ra so sánh với người khác và họ cảm thấy hạnh phúc một khi đời sống vật chất không thiếu thốn và tinh thần không buồn lo, giận hờn. Thế nhưng, khi cuộc sống đã đạt được ấm nohạnh phúctiền của dư giả, phần nhiều con người lại bị phiền não bởi những tham vọng cao xa của chính mình, vẫn cảm thấy chưa đủ với cái đủ của mình. Cứ như thế, từng bước, họ tranh nhau leo lên cái nấc thang danh vọng không có thời gian để quay đầu  nhìn lại, khi gặp phải điều bất trắc, tai ương, họ mới có cơ hội để nghĩ suy. Điều này được chứng minh trong cuộc sống của chúng ta rất nhiều, có những người cảm thấy quá khổ đau khi đời sống vật chất bị thiếu hụt: cơm, áo, gạo, tiền không đủ, phải đi bươn chải làm lụng vất vả để có cái ăn, cái mặc. Thậm chí, có không ít người vì lợi ích cá nhân không màng nhân quả, sẵn sàng bán rẻ lương tâm làm những việc gây bất lợi cho người khác để có được hạnh phúc hiện tại, bất chấp cả những việc làm tội lỗi. Vì quyền lợi, vì mục đích cá nhân họ chấp nhận đánh đổi tất cả chỉ mong có được những thứ mình mong muốn. Đến khi được giàu sang sung sướng thì sao, họ có cảm thấy an vui, hạnh phúc hay không? Tâm họ có được sự thảnh thơithoải mái hay không? Dĩ nhiên là không. Trái lại họ cảm thấy bất anhối hận với những ác nghiệp đã tạo ra trong quá khứ cứ đeo bám không ngừng, khiến họ ăn không ngon ngủ không yên mỗi khi chợp mắt, tâm họ bị giày vò, ăn nănhối hận vì những điều mình đã gây ra. Lo lắng quả báo xấu ác sẽ đến với mình, lo lắngtài sản bất chính của mình sẽ bị người khác cướp đoạt mất và còn nhiều sự lo lắng hơn thế nữa khiến tâm họ không có cảm giác an vui, hạnh phúc thật sự.

Do đó, vấn đề được đặt ra là: hạnh phúc không phụ thuộc vào vật chất nhiều hay ít, giàu nghèo hay sang hèn. Nó phụ thuộc qua cách nhìn nhận, đánh giá của con người, và phương cách hành xử đối với nó. Một người trong tay có được tất cả tài sản trong thế gian, với người nghèo mà tâm khôngtham muốn, mong cầu hai người đều giàu như nhau. Ví như: Một anh nhà nghèo sở hữu được một trăm nghìn sẽ cảm thấy rất hạnh phúc, nhưng một anh nhà giàu sở hữu một triệu đồng chưa chắc đã cảm thấy hạnh phúc như anh chàng nhà nghèo vì đối với anh một triệu đồng là quá nhỏ so với sự tham muốn quá lớn của mình. Như vậy, vật chất không thể mang đến hạnh phúc hoàn toàn như con người suy nghĩ.

Trái lạihạnh phúc hoàn toàn phụ thuộc vào thái độ tâm lý và cách chúng ta tư duy, nhìn nhận. Phật dạy: Thiểu dục tri túc giúp chúng ta có cái nhìn bình đẳng đối với hạnh phúc. Một người nghèo nếu biết vận dụng giáo lý thiểu dục tri túc thì hạnh phúc hơn một người giàu không biết vận dụng giáo lýthiểu dục tri túc, vì người giàu vẫn thấy khổ với cái khổ không bao giờ biết đủ của họ. Kinh Di Giáo, Phật dạy: “Nầy các Tỳ kheo ! Nếu các ông muốn thoát khỏi sự khổ não, nên suy nghiệm hai chữ “Tri túc”. Hễ biết đủ thì ở cảnh nào cũng yên vui. Người không biết đủ, tuy giàu mà nghèo; người biết đủ tuy nghèo mà giàu. Người không biết đủ thường bị năm thứ ham muốn lôi kéo, làm người biết đủ thương hại”. Vấn đề là chúng ta có chịu chấp nhận với hạnh phúc mình đang có hay không hay là cố công tìm kiếm hạnh phúc hư ảogiả dối, không chân thật. Người Phật tử cần phải đoạn trừ mọi dục vọng cám dỗ của vật chất, sống một cuộc sống giản dị “tam thường bất túc”, đối với ba việc ăn, mặc, ở chẳng nên cầu kỳvừa đủ là được.

Chúng ta đến với đạo Phật là để được hạnh phúc hơn, an lạc hơn chứ không phải đến để được giàu có hơn, địa vị cao hơn. Khi một người biết đủ, ít ham muốn thì ngay những nhu cầu, khát vọng chính đáng cũng không thể làm vẩn đục cái tâm trong sánglành mạnh của người ấy thì làm sao họ có thể gây hại cho người khác được. Không gây hại người khác là chúng ta đoạn được nhân xấu ác, khiến chúng ta trầm luân trong luân hồi sanh tử. Tuy điều kiện vật chất giúp ta có cuộc sống tốt đẹp hơn, điều đó không ai phủ nhận, nhưng chúng ta không thể đánh đổi, bất chấp tất cả để đạt được nó. Chúng ta vẫn luôn hướng đến một đời sống với vật chất đầy đủ hơn, hoàn thiện hơn, nhưng hành trình chúng ta đi trong tâm thái thanh thảnan lạc, không bị câu thúc nung nấu bởi những trạng thái không biết đủ, quá nhiều tham muốn, không làm nô lệ cho tâm tham dục lôi kéo, mà phải làm chủ dục vọng bản thân. Đó là những gì mà đức Phật muốn gửi gắm chúng ta qua lời dạy về pháp thiểu dục tri túc để chúng ta hành trì tu tập đạt đến sự giác ngộgiải thoát viên mãn.

Mỗi người chúng ta còn mang trong người căn bệnh trầm kha nên mới bị đọa đày trong sinh tử, điều quan trọng là chúng ta phải tự nhìn nhận chứng bệnh của riêng mình để có được một phương thuốc trị liệu thích hợp. Phật dạy: Tình khó đoạn, ái khó xả, dục khó trừ nó làm trở ngại đạo tâm, tham, sân, si mới là ba chứng bệnh lớn mà chúng ta cần phải đoạn trừ. Và phương pháp thiểu dục tri túc là điều căn bản để loại trừ lòng tham lam, hướng đến hạnh phúc thực tạigiải thoát về sau. Đức Phật trao truyền phương thuốc trị liệu ấy rồi thì hãy nhanh chóng sử dụng và đem kinh nghiệmấy truyền đạt lại cho người khác, khiến tất cả đều được lợi ích.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1178)
Trí tuệ giống như ánh sáng, và có ba cấp độ:
(Xem: 738)
Chúng ta thường nghe dặn dò rằng, hãy tu đi, đừng nói nhiều, đừng lý luận nhiều, đừng dựa vào chữ nghĩa biện biệt sẽ dễ loạn tâm
(Xem: 840)
Trước khi tìm hiểu chủ đề “Nương thuyền Bát nhã là gì? ”, chúng ta cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của từ Bát nhã.
(Xem: 798)
Từ “Phật” (Buddha) đã được biết đến và lưu truyền trước khi Đức Phật xuất hiệnẤn Độ.
(Xem: 757)
Đức Phật, Ngài là con người, bằng xương bằng thịt, như bao nhiêu con người khác...nhưng Ngài là một con người giác ngộ, tỉnh thức...
(Xem: 769)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 773)
Trời có lúc nắng lúc mưa, người có lúc may mắn hoặc xui xẻo. Nhưng không có cái gì tự dưng sinh ra hay mất đi, tất cả đều có lý do của do của nó.
(Xem: 665)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 934)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1247)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1415)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 1151)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1474)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 939)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 847)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 948)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 971)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 938)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 967)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 1088)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 913)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 1059)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 1054)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 975)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 1011)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 931)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1091)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 1038)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 959)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 1059)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 984)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 925)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 1025)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 964)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1209)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 992)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1079)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1234)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1671)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1241)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1314)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1187)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 1046)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 1007)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 1030)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 883)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1558)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1432)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1406)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1344)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant