Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Những Cái Nhìn Khác Nhau Về Phật Giáo

17 Tháng Chín 202318:16(Xem: 1384)
Những Cái Nhìn Khác Nhau Về Phật Giáo
Những Cái Nhìn Khác Nhau Về Phật Giáo 

Vu Lăng Ba
Thích Nguyên Hùng


phat giao

Thỉnh thoảng, có vài vị nhân sĩ đạo Gia-tô níu kéo tôi vào đạo, nhưng vì những lý luận trong cuốn Cựu ước cũng như Tân ước không thể nào làm cho tôi tin và tiếp nhận được, cho nên tôi không theo.

Nơi tôi sống lại không có chùa chiền, không gần gũi được với những bậc thiện tri thứcvì vậy đối với Phật giáo, tôi cũng chẳng biết tí gì. Vậy mà cách đây hai năm, vô tình tôi đọc được một cuốn sách do Lương Nhậm Công viết có tựa đề Cương yếu giáo lý Phật-đà thời nguyên thủy và hiện đại, khiến cho tôi có hứng thú nghiên cứu kinh điển Phật giáo. Từ đó, tôi phát sinh chánh tínquy y Tam bảo và trở thành một Phật tử tại gia.

Sau khi quy y Tam bảo, vì muốn tìm cầu tri thức, tôi đã nỗ lực nghiên cứu kinh điển. Kinh Phật mênh mông như biển cả, tôi hết ngày đến đêm lần mòkhám phátìm kiếm. Trong quá trình nghiên cứu, tôi cảm thấy Phật pháp thật cao thâm, viên dungtinh tếPhật pháp đã phá trừ những mê muộicủa tôi và cho tôi trí tuệ. Từ đó, tôi càng tinh tấn hơn, không dám lười biếng. Tôi đã bỏ đi lòng tự kỷ, và đem những chỗ hay trong Phật pháp mà tôi biết được giới thiệu cho bạn bè, người thân, hy vọngrằng họ cũng có thể phát khởi được chánh tínquy y cửa Phật.

Có một điều, bản thân tôi luôn cảm thấy mình là người từ mê vào ngộ, được đi trên con đườngchân chính. Nhưng trong mắt bạn bè, tôi là người từ ngộ vào mê, tức tin theo Phật là sai lầm, là đi vào con đường tiêu cựcbi quan yếm thế. Về điểm này, tôi không muốn biện bạch. Tôi thấy mình tin Phật là đúng, mà người khác chê cười tôi tin Phật cũng là đúng. Đã vậy, có thể nói là người mê tự mê, kẻ ngộ tự ngộ, hà tất biện bạch làm gì.

Ở một phương diện khác, khi tôi chưa quy y Tam bảo, tôi không có tín ngưỡng bất kỳ tôn giáo nào, cũng không quan tâm đến tín ngưỡng tôn giáo của người khác, đồng thời cũng rất ít khi thảo luậnvề vấn đề này. Sau khi quy y Tam bảo, nhân vì thấy sự lợi ích của Phật pháp, tôi mới đem giới thiệucho người khác. Tôi thường cùng với các bạn đồng tu tham gia hoằng dương Phật pháp, đem Phật pháp đến với mọi ngườihy vọng có thể làm cho mọi người phát khởi niềm tin.

Nhờ cơ duyên này tôi mới phát hiện ra rằng, trong xã hội hiện nay, còn rất nhiều người kỳ thị Phật giáo, rất nhiều người hiểu sai về Phật giáo, rất nhiều người còn xa lạ với Phật giáo, và ngay cả những người mệnh danh là Phật tử cũng không hiểu gì về Phật giáo bao nhiêu. Cho nên, phần nhiều giới nhân sĩ trí thức mới dùng những từ như lạc hậumê tíntiêu cực, yếm thế… chụp lên đầu Phật giáo. Trong khi đó, Phật giáo là một tôn giáo lấy từ bi làm gốc, lấy nhẫn nhục làm hạnh, cho nên, dù người ta nói gì thì nói, người Phật tử không hề biện bác, cũng không giải thích. Đó cũng là một nguyên nhân khiến cho xã hội ngày càng nhận thức sai lầm về Phật giáo.

Tôi nhận thấy, mọi tầng lớp trong xã hội, hoặc vô tình, hoặc cố ýnhận thức sai lầm về Phật giáo, có mấy loại sau đây:

1- Những người kỳ thị Phật giáo: Nhóm người này, có hai. Một là kỳ thị một cách có ý thức. Hai là a dua theo một cách mù quáng. Loại thứ nhất là trong não bộ đã có sẵn thành kiếncố ý nói xấu. Loại thứ hai là nghe người ta nói sao mình nói lại vậy, kiểu a dua, phụ họa. Nhóm người thứ nhất phầnlớn là những người truyền giáo ngoại đạovì lợi ích tôn giáo mình, bất chấp thủ đoạn đổi trắng thay đen, luôn cho Phật giáo là lạc hậumê tíntiêu cực, yếm thế… tôn vinh tôn giáo mình là tiến bộ, khoa học.

Nhóm người thứ hai là tín đồ của nhóm thứ nhất, luôn cảm thấy rằng “trăng ở xứ người sáng và tròn hơn trăng ở xứ mình”. Cho nên, hễ ông thầy xứ nọ đã nói Phật giáo là lạc hậumê tín thì liền hùa theo đồng tình cho rằng Phật giáo lạc hậumê tín. Nhưng nếu bạn hỏi họ vì sao nói Phật giáolạc hậu? Thế nào là mê tín? Thì họ không biết trả lời thế nào, dù chỉ một câu. Bởi vì họ vốn không biết một chút gì về Phật giáo hết.

Có một vị bác sĩ danh tiếng hỏi tôi: “Tại sao anh lại tin Phật giáo, và còn đốt hươngtụng kinhnữa?”. Tôi trả lời“Tin Phật có gì không tốt?”. Ông ta nói: “Do xu thế tiến hoá của nhân loạitôn giáophải từ đa thần trở về nhất thần”. Tôi giải thích“Thần là thần, Phật là Phật, căn bản là không giống nhau. Dù từ đa thần trở về nhất thần đi nữa, thì chung quy đó cũng chỉ là những tôn giáo có tín ngưỡng nhờ tha lực. Trong khi đó, Phật giáo dạy con người phải nương vào tự lực, tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, người nào cũng có thể tu tập thành Phật”. Dù nói lý lẽ phải trái, ông bác sĩcũng không thể nào tiếp thu được. Tôi nghĩ, hoằng pháp phải khế cơnếu không, nói cũng vô dụng, không được gì.

2- Những người hiểu sai Phật giáo: Những người này không phản đối, bôi nhọ Phật giáo, nhưng bởi vì không nhận thức đúng đắn về bản chất của Phật giáo, cho nên cho rằng Phật giáo cũng như những đạo thờ thần, cúng tế, lễ bái… từ đó vướng mắc rất nhiều sai lầm. Nhóm người này chiếm tỷ lệ rất nhiều. Có người đã lợi dụng thần linh để kiếm tiền, thậm chí lấy những chuyện kiểu như hiển linh này nọ… rồi gán ghép cho Phật giáo. Sự hiểu lầm lệch lạc này không hề được giải thích rõ ràng.

Cách đây một năm, có một tờ báo đăng bài có tiêu đề“Lợn béo ngàn cân, Bồ-tát có phước”. Nội dung bài báo tường thuật chuyện ở một làng nọ nhân kỳ lễ vía thần Đại đế, đã giết rất nhiều lợn để tế lễ. Vị ký giả thấy sự cúng tế hậu hĩ như vậy nên mới đặt tiêu đề “Bồ-tát có phước”. Tôi nghĩ, vị ký giả đó đã phạm hai sai lầm lớn. Một là, ông ta đã ngộ nhận Đại đế của đạo thờ Thần thành Bồ-tát của Phật giáo. Hai là, ông ta không hiểu rằng tinh thần cơ bản nhất của Phật giáo không được sát hại chúng sanhVì vậysai một ly đi một dặm. Kiểu nhận thức về Phật giáo như bài báo nọ đã đăng càng làm cho giới trí thức trong xã hội đánh đồng Phật giáo với đạo thờ Thần làm một.

3- Những người chưa biết về Phật giáo: Nhóm người này, Phật giáo đối với họ rất xa lạ và chiếm tỷ lệ rất nhiều trong xã hội. Có người vì cơm ăn áo mặc, có người vì sự nghiệp công danh, suốt ngày họ đắm chìm trong năm món dục tài, sắc, danh, thực, thùy, cho nên không còn thời gian biết đến những chuyện khác. Trong đầu óc của những người này, căn bản là không có ấn tượng tôn giáo.

Tôi đã từng có dịp nói chuyện với một người bạn là thương nhân về vấn đề tôn giáo và khuyên anh ấy phát khởi niềm tin ở Phật giáo - anh ta là một người rất bận rộn, vì phải xử lý mọi việc lớn nhỏ trong công ty, khó khăn lắm anh ta mới có được một chút thời gian chuyện trò với tôi. Tôi chưa nói hết nửa câu, thì anh ta thể hiện ngay rằng, đối với Phật giáo anh không xa lạ gì, anh nói với vẻ tự đắc: “Có phải trong Phật giáo có ông Phật tổ Như Lai to thiệt to ở Tây thiên không?”. May mà ông ta đã xem qua bộ phim Tây du ký, bằng không, sợ rằng mấy chữ Như Lai Phật tổ anh ta cũng không biết.

Trong kinh Phật nói: “Thân người khó được, Phật pháp khó được nghe, tín tâm khó phát”. Thật đúng như vậy! Phật giáo lưu truyền ở đất nước ta (Trung Quốc) trên hai ngàn năm, nền Phật học từ thời Nam Bắc triều, đến đời Tùy, đời Đường trở đi, đã ảnh hưởng rất sâu rộng trong văn hóatư tưởngcủa dân tộc. Vậy mà cho đến hôm nay, trong xã hội, phần lớn là những người không hề biết gì về Phật giáo. Thực trạng như vậy, không biết là nên buồn cho Phật pháp, hay buồn cho văn hóa nước nhà!

4- Những người mượn danh Phật tử: Những người này chỉ mặc bên ngoài một chiếc áo Phật giáo, rồi tự xưng là đệ tử của Phật. Họ cũng đốt hươngniệm Phậttụng kinhbái sám. Nhưng mục đíchchính là lợi dụng lòng mê tín và thiếu hiểu biết của những người nông dân quê mùa chất phác để kiếm tiền.

Trong chùa miếu của họ thì thờ đủ loại, Chân nhânTiên cô, và cả Bồ-tát nữa; phương pháp tu trìcủa họ là vận khí, niệm chú. Loại này như nhà võ, xem bốn biển một nhà. Nếu như họ không đề hai chữ Phật giáo thì thôi, khổ nỗi họ đã dùng chiêu bài tín đồ Phật giáo khiến cho những người Phật tửchân chính nhầm lẫn? Ngoài ra, còn có một số người khởi xướng cái phong trào“tam giáo quy nhất”, đánh đồng Phật, Nho, Lão với nhau, khiến cho giới tín đồ Phật tử chánh tín dở khóc dở cười!

5- Những người muốn tìm hiểu Phật giáo mà không có cơ duyên: Nhóm người này cũng tương đốiđông, phần nhiều là giới trí thức, họ biết được rằng giáo lý của nhà Phật rất sâu sắc, có ảnh hưởngvà quan hệ mật thiết với văn hóa Trung QuốcVì vậy, họ rất muốn tìm hiểu một chút về đại ý Phật học, nhưng khổ nỗi là không có cơ duyên. Thứ nhất là, rất khó gặp thiện tri thức để học hỏi; thứ hai là, không tìm được sách để đọc. Họ muốn tìm hiểu Phật giáo, nhưng không biết bắt đầu từ đâu. Cho nên, họ không có cơ hội hiểu được Phật giáo, và vì vậy không thể nào phát khởi được niềm tin.

Một người bạn của tôi làm công tác giáo dục, nói chuyện về vấn đề Phật giáo, ông ta phân trần: “Trước đây tôi rất muốn biết tình hình tổ chức và nội dung kinh điển của Phật giáo, cho nên tôi đã từng thỉnh giáo một vị trưởng bối, vị này ăn chay và niệm Phật. Nhưng vị ấy không biết gì nhiều, bèn đưa cho tôi một cuốn Thiền môn nhật tụng và vài cuốn kinh gì đó. Tôi xem qua một lần, rồi xem lại nhiều lần, nhưng càng xem càng mờ mịt, và cuối cùng là cái ý niệm tìm hiểu Phật giáo ban đầucủa tôi biến tiêu mất”.

Những trường hợp tương tự như trên còn nhiều không kể hết. Điều đó khiến cho tôi nghĩ đến hiện nay trong xã hội vẫn còn có quá nhiều người nhận thức sai lầm hoặc còn quá xa lạ đối với Phật giáo. Làm thế nào để những người này có một nhận thức chính xác và cơ bản về Phật giáo? Đó là vấn đề mà tất cả chúng ta phải suy nghĩ.

Phật pháp rất cao thâm, viên dung và tinh tếgiới học giả có duyên nghiên cứu Phật giáo đã công nhận như vậy. Ngay cả giới trí thức không theo Phật giáo cũng thừa nhận rằng lý luận của Phật giáo rất chính xác và vĩ đại. Nhưng, cũng chính vì Phật pháp vi diệu như vậy cho nên khó lãnh hội; vì cao thâm cho nên khó hiểu. Tam tạng thánh điển gồm mười hai bộ kinh mênh mông như biển cả. Danh và tướng đã nhiều, mà từ và ý thì càng sâu sắc. Cho nên, đem Phật pháp mà nói cho những người chưa từng tiếp xúc với Phật giáo thì thật khó vô cùng. Cũng giống như đem viên ngọc báu ma-ni để trước mắt người mù, thì dù viên ngọc sáng đến bao nhiêu, người ấy cũng không cảm nhận được.

Xã hội đang đứng trước nhiều tệ nạn, Phật pháp thì suy vi. Khắp nơi nổi lên nhiều tà thuyếtdị đoan. Cho nên, việc hoằng dương Chánh phápcứu vãn tình thế xã hội, là trách nhiệm của mỗi người Phật tử, mà đặc biệt là những người xuất gia. Mong rằng chư tôn đức Tăng Ni đẩy mạnh công cuộc hoằng dương Phật pháp hơn nữa để những trường hợp nhận thức sai lầm và lệch lạc về Phật giáo như trên không còn nữa.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 704)
Trời có lúc nắng lúc mưa, người có lúc may mắn hoặc xui xẻo. Nhưng không có cái gì tự dưng sinh ra hay mất đi, tất cả đều có lý do của do của nó.
(Xem: 596)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 786)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1108)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1272)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 1000)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1344)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 795)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 768)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 811)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 825)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 804)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 793)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 949)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 839)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 989)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 1008)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 933)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 932)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 861)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1016)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 961)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 899)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 996)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 912)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 853)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 959)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 889)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1148)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 920)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1019)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1160)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1619)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1166)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1262)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1115)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 979)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 922)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 961)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 806)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1488)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1369)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1331)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1276)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1385)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1335)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1478)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1355)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1208)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1268)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant