Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Bài Mới Nhất trang Văn Học
Điền Email để nhận bài mới

Những Sợi Dây Trói Buộc

16 Tháng Mười Một 202316:49(Xem: 3620)
Những Sợi Dây Trói Buộc

Những Sợi Dây Trói Buộc


Thích Nữ
 Hằng Như  

hoa sen

                                                               


I. DẪN NHẬP

Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ, bài học đầu tiên là phải tu tập loại bỏ những nguyên nhân đưa đến phiền não, khổ đau. Các nguyên nhân đó chính là những sợi dây trói buộc chúng sinh vào vòng sinh tử luân hồi. Trong Tứ Diệu Đế, chúng là Tập đế, còn gọi là Lậu hoặcKiết sửTùy miênLậu hoặc được hiểu là những chủng tửác xấu tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến… chúng ngủ ngầm trong tiềm thức của chúng sanh nên gọi là Tùy miên.  Còn Kiết Sử là gì?

Kiết hay Kết là sự kết nối, trói buộc. Sử là ra lệnh, sai khiến. Như vậy Kiết sử là những sợi dây trói buộcsai khiến chúng sanh trong ba cõi sáu đường. Nó sai xử chúng sanh làm việc này việc nọ, thiện có, ác có… tạo đủ thứ nghiệp,  khiến chúng sanh phải chịu luân hồi sanh tử hết đời này sang đời khác để trả nghiệp quả đã gieo.

 Giáo pháp của đức Phật chỉ bày chúng ta phải lôi chúng ra nhận diện từng sợi dây trói buộc, để khi chúng xuất hiện chúng ta nhận rõ mặt mũi của chúng như thế nào hầu dễ bề tu tập loại trừ chúng. Kiết sử thì có rất nhiều nhưng tựu trung có mười sợi dây trói buộc, được chia làm hai loại: Năm Độn Sử và Năm Lợi Sử.

 

II. ĐỘN SỬ GỒM NHỮNG GÌ ?

   Độn sử là loại dây trói buộc căn bản, người nào cũng có. Nó sai khiến con người tạo ra những hành vi lầm lỗi gây phiền não cho chính mình và những người xung quanh. Loại này có năm thứ gồm: Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi. Gọi là năm độn sử vì năm món này là năm triền cái, là năm đám mây đen, ngăn che ánh sáng trí tuệ, khiến con người không thể đi đến giác ngộ được nên gọi là “độn sử” .   

1) THAM DỤCKHÁT ÁI: Tham dục khát ái là lòng ham muốn không bao giờ đủ. Ham muốn cái gì? Đó là sự ham thích hưởng thụ mọi thứ do giác quan mang đến. Ở đời thiên hạ xem sự hưởng thụ là quyền tự do của mỗi người. Chẳng hạn như mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý…  muốn nhìn, muốn nghe, muốn ăn, muốn ngửi, muốn được vuốt ve, muốn được xoa nắn, muốn đi đâu, hay muốn phóng tâm suy nghĩ điều gì… đều được tự do hành động và hưởng thụ. Sự tự do hưởng thụ các dục lạc từ sáu căn đem lại, đối với họ, đó chính là hạnh phúc. Có điều, họ không nhận thức được rằng hạnh phúc và đau khổ chỉ là hai mặt của một đồng tiền. Cũng giống như vậy, đối nghịch của sự tự do là sự trói buộcTự do hưởng thụ những gì mang đến sự hài lòng thích thú, để rồi sau đó bị trói buộcvào những bất mãn khó chịu. Tại sao vậy? Bởi vì tất cả các pháp hữu vi trên đời đều vô thường vô ngã. Không có cái gì ở mãi với mình cho dù đó là niềm hạnh phúc hay nỗi khổ đau.

Một người tỉnh thức học Phật thì cho rằng những dục lạc, khoái cảm đó chỉ là những trói buộc phiền não cho bản thân. Họ tu tập thiền Định để vượt qua những dục lạc giác quan đó. Khi chứng thiền, được giải thoát khỏi sự trói buộc bởi những khoái cảm của giác quan, nhưng họ lại dính mắc với hỷ lạc do việc thực hành thiền mang đến.

Cả hai loại cảm thọ ham thích do giác quan đem lại, hay sự an lạc do thiền Định đem đến, đều là sợi dây Tham trói buộc con người trong vòng luân hồi sanh tử.     

2) SÂN:  Nhẹ nhàng là sự bất bình, bất mãn, không vừa lòng. Nặng nề hơn là nóng nảysân hậngiận dữthù oán gây phiền não cho chính mình và não hại cho người đối diện. Khi giác quan tiếp xúc đối tượng thường xảy ra một trong ba cảm thọ thích hay ghét, hoặc trung tính không ưa cũng không ghét. Nhưng nhìn chung nếu ở đâu có thích thì ở đó có ghét. Trong thực tế con ngườithường sống trong ưa thích và chán ghét

Thí dụChúng ta thích sống trong nhà cao cửa rộng, nệm ấm chăn êm, ăn ngon mặc đẹp. Như vậy, chứng tỏ chúng ta ghét cuộc sống nghèo khổ, không nhà không cửa, không thích những món ăn dở và không thích vận những bộ quần áo xấu cũ. Muốn sở hữu những thứ chúng ta thích, thì phải có tiền. Muốn có tiền thì phải đi làm.  Như vậy việc đi làm là do chúng ta thích có nhiều tiền. Thích có nhiều tiền đồng nghĩa với sự chán ghét không có đồng xu dính túi v. v…

            Như vậy, có phải hằng ngàychúng ta sống và làm việc để phục vụ cái thích và cái không thích của bản ngã hay không? Thích là muốn chiếm đoạt nên căn bản nó là tham. Ghét là không ưa, là dứt bỏ, nên nền tảng của nó chính là sân.  Tham với sân là hai sợi dây trói buộc đưa chúng sanh vào vòng sinh tử luân hồi.     

3) SI: Là tối tăm, mê mờ, là vô minh, không thấy được ánh sáng Giác ngộ. Do tâm trí mê mờ, tối tăm, nên không thông suốt được bốn sự thật về Khổ. Đó là Khổ đếTập đếDiệt đế và Đạo đế, gọi chung là Tứ Diệu Đế. Không hiểu về Lý Duyên Khởi Pháp Duyên Sinh, không biết nguyên lý Nhân Quả v. v…  nên chìm đắm trong luân hồi sanh tử triền miên.  

 4) Mạn: Mạn là tự hào cho mình hơn người gọi là tự tôn, hoặc thấy mình thua kém mọi người nên có mặc cảm tự ty. Tự tôn hay tự ty đều là Mạn. Để hình thành Kiết sử, trong Phật giáo có 7 loại Mạn gọi là “thất chủng Mạn” gồm: Mạn, Ngã MạnQuá mạn, Thượng mạn, Tăng thượng mạn,  Liệt Mạn, Ty Liệt mạn.

Nói đến Mạn là nói đến cái Ta. Cái Ta ngạo mạn, hống háchkiêu căng, tự phụ  gọi là  Ngã mạn. Thượng mạn là tự xem mình như cái rún của vũ trụ, cái gì cũng biết. Tăng thượng mạn là coi Trời bằng cái vun, tự cho mình giỏi nhứt thiên hạ.  Phía dưới Mạn là Liệt mạn. Người Liệt mạn tự cho mình không ra gì hết. Thấp hơn Liệt mạn là Ty liệt mạn. Ty liệt mạn tệ hơn cả Liệt mạn, tự xem mình là người thiếu trí, ngu đần, hèn hạ, thấp kém đến tận cùng con số không.

Những loại Mạn nêu trên là sợi dây trói buộc cần phải diệt trừ bằng cách không bao giờ khởi lên cái Ngã, cái Ta. Trong kinh Tứ Niệm Xứđức Phật dạy: Khi có ý nghĩ khởi sanh thì thấy biết là ý nghĩđang khởi sanh, không có tôi suy nghĩ. Khi có một niệm sân khởi, biết là có niệm sân khởi, không phải tôi sân. Đừng bao giờ gán cái Ngã, cái Tôi vào. Thường quan sát tâm liên tục như vậy, sau một thời gian, cái Tôi, cái Ngã sẽ vắng lặng… thì trừ được Ngã mạn.  

5) NGHI NGỜ: Nghi ngờ là không tin tưởng, là ngờ vực, phân vân, lưỡng lự, không quyết định dứt khoát một điều gì.  Đối với người tu Phật, có ba loại nghi ngờ cần giải quyết, đó là:

1) Nghi mình: Nghi ngờ bản thân mình không thể giác ngộ.

2) Nghi người: Nghi bậc Đạo sư tức đức Thế Tôn, hay hiện tại là vị Thầy hướng dẫn mình không thể dạy đạo Giác ngộ.

3) Nghi pháp: Trong lộ trình tu tậpnghi ngờ pháp môn mình đang thọ trì, không biết có thực sự đưa đến an lạcgiác ngộ hay không? Hoặc nghi ngờ thuyết nhân quả, thắc mắc tại sao trên thế gian này có nhiều người làm ác mà vẫn sống giàu sang sung túc. Còn những người hay làm việc thiện giúp người, lại gặp nhiều chướng ngại xui xẻo trong đời sống.

Giáo lý nhà Phật không cấm nghi ngờ. Trên con đường tu tập, khi chưa thấu hiểu một vấn đề gì thì có quyền nghi ngờ, có quyền thắc mắc. Nhưng cần phải giải quyết những nghi ngờ những thắc mắc đó, bằng cách học hỏitìm hiểu rõ ràng.

Thí dụ như để xóa tan lòng nghi ngờ về Nhân quả. Người học Phật phải hiểu rõ nhân quả diễn tiếnba đời. Đời trước mình làm nhiều việc bất thiện thì đời này đương nhiên mình gặt quả xấu. Đời hiện tại tuy hưởng quả xấu, mà mình làm nhiều điều phước thiện thì đời sau mình hưởng nhiều phước báoHiện tại đôi khi mình làm việc lành tốt mà cứ hưởng quả đắng. Đó là quả của quá khứHiểu rõnhân quả diễn tiến ba đời như vậy, sẽ không còn nghi ngờ nữa.

Tóm lạiNghi ngờ là sợi dây trói buộc thứ năm khiến hành giả phân vân, giải đãibuông lung, không biết đi hướng nào trên con đường tu tập tâm linh.

 

III. LỢI SỬ GỒM NHỮNG GÌ? 

Lợi sử là sự trói buộc thuộc về Nhận thức. Có năm loại lợi sử là Thân kiếnBiên kiếnKiến thủ kiếnGiới cấm thủ kiến và Tà kiến.  Năm lợi sử này còn gọi là “ngũ kiến” hay “ác kiến”. Gọi “ác kiến” vì cái thấy biết đi ngược với tinh thần Giác ngộ.        

1) THÂN KIẾN: Hiểu biết sai lầm về thân, nhận lầm ngũ uẩn là ta, của ta, tự ngã của ta. Người chấp thủ thân kiến là người mê luyến tấm thân của mình và ra sức cung phụng nó về mọi mặt. Người nào mà ái luyến xác thân, cung phụng xác thân thái quá,  thì rơi vào sợi dây trói buộc Thân kiến.

Người tu học Phật, nuôi dưỡng cái thân bình thường như bao nhiêu người khác. Nhưng người đó hiểu rõ tấm thân của họ chỉ là giả hợp, chỉ là đất, nước, gió, lửa.  Nói cách khác  tấm thân này là sự kết hợp của ngũ uẩn: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức.  Ngũ uẩn không phải là ta, của ta, tự ngã của ta, nên ta không thể bảo thân đừng đau khi nó đau. Khi thân già, ta không thể bảo thân đừng già được. Ta không làm chủ được cái thân vì nó chỉ giả hợpvô thườngvô ngã.  Tóm lại thân tâm chỉ là sự diễn tiến của Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Nó diễn tiến tạo nên đời sống của chúng ta. Người nào thấy được như vậy thì cắt đứt được sợi dây trói buộc về Thân kiến.    

2) BIÊN KIẾN: Đây là cái thấy chấp nghiêng hẳn về một bên. Thí dụ: Chấp thế gian này là thường hằng, hay Vô thường đều là biên kiến.       

3) KIẾN THỦ KIẾN: Kiến là kiến thức, là quan điểm. Thủ là nắm giữ, cố chấp. Vậy Kiến thủ là cố chấp vào nhận thứcquan điểm  của mình. Cho rằng cái thấy cái biết của mình là đúng, của người khác là sai. Vì cố chấp nên cánh cửa học hỏi bị ngăn chận, không có cơ hội mở mang dù là kiến thức thế gian hay kiến thức Phật học

4) GIỚI CẤM THỦ KIẾNThứ nhất ám chỉ sự tuân thủ những nghi lễ cúng tế mang tính cách mê tín dị đoan, chẳng hạn như giết trâu, bò, heo, gà, vịt…  để tạ ơn thần linh, hoặc đốt giấy tiền, vàng bạc, xe hơi, nhà lầu làm bằng giấy… cho người quá cố xử dụng bên kia thế giới v. v… Tuân thủ theo giới luật hay theo truyền thống này không đưa đến giác ngộ giải thoát. Cho nên bản thân nó là Giới cấm thủ.

Trong đạo Phậtgiữ Giới là điều quan trọng. Giới giúp cho hành giả sống một đời sống đạo đứckhông phạm những lỗi lầm gieo nhân xấu. Là người cư sĩ hay tu sĩ đã thọ giới và kiên quyết giữ giới, thì đây không phải là Giới cấm thủ.

Giữ giới mà thiếu trí tuệ, không uyển chuyển, thành ra cứng ngắc, thậm chí gây trở ngại trong việc tu mới là Giới cấm thủThọ giới giữ giới mà ngã mạn tự hào xem thường người khác không giữ giới bằng mình thì đó là Giới cấm thủ. Nói cách khác một người cố giữ giới và hãnh diện rằng mình trong sạch hơn người khác nhờ giữ giớigiữ giới theo cách này chỉ tô bồi thêm bản ngã nên bản thân nó là Giới cấm thủ…

Sau cùng, muốn hoàn toàn giải thoáttâm không thể vướng mắc vào bất cứ thứ gì, ngay cả việc lo giữ giới cũng phải buông, vì giới chỉ là các điều luật do đức Phật chế định giúp cho những người sơ tu khép mình vào đời sống đạo, nên thực tế nó vẫn còn là tục đế. Có câu “Không giữ giới mà không phạm giới thì đó mới thực là giữ giới” hoặc “tu mà không tu mới thật là tu” ám chỉ những bậc Thánh thành tựu cứu cánh, thì buông phương tiện không còn dính mắc nữa!

5) TÀ KIẾN: Là cái thấy biết sai lệch, không hợp với chân lý Giác ngộ. Trong kinh Phạm Võng thuộc Trường Bộ Kinh nói có tới  62 tà kiến ở Ấn Độ, nhưng gom lại có hai là: Thường kiến và Đoạn kiến

5-1: THƯỜNG KIẾN:  Thường kiến có ba loại.  

- Thứ nhất: Tin có một thần linh tối thượng nào đó, có khả năng ban phước giáng họa cho chúng ta, cho nên mình phải luôn làm những chuyện phù hợp với lời dạy của vị thần linh đó. Theo đạo Phật thì chúng sanh là chủ nhân của nghiệp và thừa tự nghiệp do mình gây ra. Mình làm cái gì thì hưởng cái đó. Tạo nhân tốt thì hưởng quả tốt, nhân xấu thì hưởng quả xấu. Nhân có tốt, có xấu, thì cho quả có tốt, có xấu.  

 - Thứ hai: Tin vào một cái tôi thường hằng bất biến, tức tin con người có một linh hồn vĩnh cửu, không bao giờ thay đổi. 

- Thứ ba: Cho rằng có một nơi nào đó đưa đến an lạc hạnh phúc chấm dứt hoàn toàn đau khổ mà không cần thực hành theo Bát chánh đạo.

5.2: ĐOẠN KIẾN:  Gồm có 3: Vô nhân kiến, Vô hành kiến, Vô hữu kiến.

Vô nhân kiến:  Người Vô nhân kiến là người không tin vào nhân quả. Họ cho rằng tất cả mọi chuyện xảy ra trên đời ngẫu nhiên mà có.

Vô hành kiến:  Người ta làm việc thiện hay ác không có gì khác biệt, đó chỉ là hành động thôi. Cho nên họ tha hồ sống và làm theo ý thích.

Vô hữu kiến: Không tin có luân hồi sanh tử. Chết là hết.

Tóm lại người theo quan niệm “Thường kiến” tin có linh hồn trường cửu. Ví dụ: Người chết vẫn tiếp tục được làm người, vật chết vẫn làm vật. Hoặc sau khi chết được lên thiên đường hoặc xuống địa ngục tùy theo sự ban thưởng của thần linh….  Còn nhóm người theo “Đoạn kiến”, cho rằng chết là chấm dứt, là mất hẳn. Nếu là người sống tử tế thì không nói gì, còn như có những kẻ xấu, họ muốn làm gì thì làm, có khi sát sinhtrộm cắptà dâmvọng ngữtham lamsân hậntà kiếnmê tín dị đoan v. v…  mà không hề sợ hãi nhân quả sẽ đến với mình… Đối với đạo Phật thì Thường kiến hay Đoạn kiến đều là Tà kiến.

 
 IV. KẾT LUẬN

Khi hiểu rõ ý nghĩa của từng sợi dây trói buộc chúng sanh vào vòng luân hồi sanh tử, mà phần lớn bị đọa vào ba đường dữ là địa ngụcngạ quỷsúc sanh, thử hỏi có ai không sợ? Để thoát khỏi vòng trầm luân sanh tử khổ đau đó, chúng ta cần phải tu tập để loại trừ mười Kiết sử nêu trên. Trước hết chúng ta phải nhận diện những sợi dây trói buộc ấy sinh khởi và tồn tại trên thân tâm mình như thế nào? Nhận diện bằng cách thường tu tập “quay về nhìn lại tâm mình từng mỗi sát-na tỉnh thức”, tức là hằng ngày chúng ta tu tập sống trong chánh niệm. Có chánh niệm tỉnh thức, ta mới có cơ hội nhìn thấy được những gì xảy ra trong tâm. Như ham thíchbuồn bực, bất bình, hay dửng dưng, bình thản… khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần. Siêng năng hành trì thiền Tuệ (Vipassana) thấy được sự sinh diệt vô thườngvô ngã, của từng sợi dây Kiết sửdần dần tâm sẽ không còn dính mắc với nó nữa. Đến một lúc, Sân là Sân, Ta là Ta, Sân không phải là Ta, như vậy sợi dây trói buộc Sân đã bị triệt tiêu. Những Kiết sử khác cũng đều như thế!  

Xem ratoàn bộ những gì đức Phật giảng dạy chúng đệ tử, chung quy chỉ là một chữ buông. Tu “Hạnh buông xả” (upekkha), buông hết những thói quen trói buộchành giả sẽ kinh nghiệm trạng tháivô thamvô sânvô si, vô mạn, vô nghi…

Ngoài ra, học và hành theo chân lý Phật dạy, tâm trí được mở mang, thoát ra khỏi màn vô minh tà kiến. Khi đó, chúng ta không còn chấp thủ bất cứ vấn đề gì trên thế gian này, ngay cả tấm thân ngũ uẩn đây cũng không phải là Ta, của Ta, tự ngã của Ta… thì lấy ai khổ đau phiền não. Không có cái Ta trong ngũ uẩn, thì những sợi dây trói buộc cũng không có chỗ bám vào nên phải tan biến thôi!

                      

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

THÍCH NỮ HẰNG NHƯ

(Chân Tâm Thiền đường, November 02-2023)

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 23245)
Hãy niệm câu “thần chú” ấy mỗi ngày đi, rồi bạn sẽ thấy “đời rất đẹp”. Đời không phải là rác rưởi, đáng chán, là muộn phiền, âu lo đầy dẫy như bạn từng mặc định.
(Xem: 32219)
Vở Cải Lương Phật giáo đấu tiên được ra đời từ những tâm nguyện ấy ,đó là vở “THÁI TỬ A-XÀ-THẾ”. Soạn giả Dương Kinh Thành
(Xem: 24333)
Người xưa đã cỡi hạc vàng bay xa, Nơi này chỉ còn trơ lầu Hoàng Hạc, Hoàng hạc bay xa không trở lại...
(Xem: 19828)
Tôi say sưa ngắm nhìn cảnh tượng sáng ngời trước mắt tôi, những cành cây trơ trụi của mùa đông bây giờ đã khóac lên mình những hoa lá trắng mềm mại.
(Xem: 19545)
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận, Đình tiền tạc dạ nhất chi mai. - Dương Kinh Thành
(Xem: 18703)
Một buổi sáng rằm, đầu mùa đông ngoài trời se lạnh, nhưng trong căn phòng khách cửa mở ra hướng Nam không bị gió thổi xốc vào nên cũng khá ấm áp.
(Xem: 17476)
Mất cũng phải hết một ngày đêm suy nghĩ đến nhức đầu mệt óc, cắn trụi móng của ngón tay cái, thằng Thạch mới tìm ra được cách giải cho bài toán hóc búa...
(Xem: 18844)
Không giống cô giáo cũ, khi còn nằm trên giường biết mình đã thức dậy – Tôi luôn có niềm vui đầu tiên là “nhận biết mình còn sống! Tôi còn có mặt trên cõi đời này.
(Xem: 17976)
chúng ta có một cuộc sống may mắn hay rủi ro thì điều ấy đã được quyết định bởi tâm thứchành nghiệp của chính chúng ta. Điều này được biết đến như là định luật nhân quả.
(Xem: 19189)
Chủ quanlạc quan đều là hai thái độ dẫn đến việc người ta sống vô tư, nhưng xét về bản chất thì một bên là không lường trước mọi việc còn một bên thì biết rõ mọi việc và chấp nhận…
(Xem: 18693)
Không gì tuyệt đẹp hơn hình ảnh của mùa xuân, khi hoa đào hoa mai hé nở, khi những mầm xanh đang e ấp chờ đợi trăng nước tháng ngày...
(Xem: 21066)
Con thật may mắn đã đến được với Đạo Pháp bằng tâm chí thành. Tinh hoa của Đạo Pháp được gói trọn trong hai Bồ- Đề Tâm.
(Xem: 18512)
Nhận ra, và xóa sạch được bụi vô minh thì chúng sanh “sẽ thành Phật” đó, lập tức là “Phật đã thành”... Huệ Trân
(Xem: 17850)
Ngày tôi nhận ra con đường đích thực của cuộc đời mình, em đã khóc rất nhiều. Em muốn tôi vẫn là tôi của những ngày mới quen nhau.
(Xem: 16881)
Bản chất của mùa xuânchuyển hóa. Nó có khả năng chuyển hóa đối với những gì đang có mặt nơi nó để nó trở thành mùa xuân cho chính nó...
(Xem: 17827)
Em hãy trở về nhìn sâu vào tâm em bằng đôi mắt thiền quán, với ý chí quyết liệt, với hướng đi cao khiết, với tấm lòng thanh bạchmở rộng...
(Xem: 20469)
Thử tắt điện thoại một ngày… Một cuộc “biến mất” không dự báo trước, đối với nhiều người. Đó là một cách biểu hiện của vô thường, dành tặng cho những người thân-thương.
(Xem: 19922)
Mỗi lần đi qua những cánh đồng đang mùa gặt, tôi lại nhớ về những ngày thơ ấu êm đềm ở làng quê. Cái hương quê ngai ngái mùi lúa mới ấy như cứ mãi vấn vít lòng tôi...
(Xem: 17542)
Nhân dịp đầu năm, đi chùa lễ Phật, nhìn thấy muôn hoa đua nở, vẻ đẹp tao nhã của thiên nhiên như lời chúc phúc tốt lành đến với tất cả mọi người.
(Xem: 17564)
Nói đến Tết, chúng ta thường nghĩ tới một dịp vui đầu năm mới - Tết Nguyên đán (còn gọi là Tết cả).
(Xem: 17789)
Quãng đời ấy, là quãng đời của tôi có thật, nhưng xin quý vị đọc mà đừng tin, vì sự kiện ấy là của một thời gian đã đi qua, nó đã trở thành nắng mưa, sương gió,...
(Xem: 16002)
Cuối năm, trời trở nên rét hơn. Những cơn gió từ sông thổi vào mang theo hơi nước lạnh buốt. Con sông mùa này trông mênh mông, quạnh quẽ.
(Xem: 15906)
Gió thổi làm những chiếc lá lay động, làm nhánh cây, cành cây bâng khuâng, làm rừng xanh, đìu hiu xao xuyến. Con chim đang ngủ trong tổ giật mình thức giấc...
(Xem: 18065)
Em mới mười một tuổi, mẹ bỏ em lại bên chân núi. Ruộng dưa mênh mông, em ngơ ngác như con bù nhìn rơm giữa nắng và gió.
(Xem: 19140)
Về quê vào những ngày cuối năm mới thấy sao yêu đến vậy cái đồng đất quê mình, thương biết mấy những chị, những mẹ một nắng hai sương trên ruộng đồng.
(Xem: 14573)
Sau giờ thiền toạ sáng nay, lắng nghe lại lòng, hình như có dòng sông nào đó tuôn chảy qua đời, bắt được tiếng hơi thở thánh thót của vũ trụ...
(Xem: 15610)
Phật của ngoại nhỏ xíu, chỉ cao hơn gang tay tôi một chút - dĩ nhiên, đó là gang tay của một cậu bé mười tuổi. Phật cũng không đẹp chi lắm...
(Xem: 20721)
Tự do chính là quyền cơ bản của một con người. Do vậy ai tước đi tự do của người khác đều là hành vi vi phạm nhân quyền.
(Xem: 18664)
Khái niệm về thảnh thơi có lẽ nó đơn giản hơn nhiều khi ta đừng gắng thêm cho nó, cái “mốt”, cái danh, cái lợi và cái lòng kiêu hãnh hơn người… Có ai cấm ta những thứ đó đâu...
(Xem: 16885)
Nói về mùa xuân, ai cũng hình dung đến những điều tốt đẹp đang chờ đón mình trong năm mới. Nhưng rồi mùa xuân cũng đi qua, xuân năm nay trở thành xuân năm trước.
(Xem: 14633)
Hạnh phúc vĩnh hằng là sự tự do bình yên nội tại, sự tĩnh lặng nơi tâm thức, không bị khuấy động bởi những tranh đua, nhiễu nhương của cuộc đời.
(Xem: 19023)
Chúng ta là những lữ khách trên hành tinh này. Chúng ta có mặt ở đây nhiều lắm là chín mươi hay một trăm năm.
(Xem: 17238)
Năm Canh Dần trôi qua với biết bao nhiêu sự kiện xảy ra trên khắp thế giới. Hội nghị cấp cao Đông Á với sự xuất hiện của Nga và Mỹ, người Việt Nam đầu tiên đoạt Huy chương Fields danh giá...
(Xem: 17254)
Vị thầy người Nhật của tôi đã ra đi năm ngoái, quá trẻ, quá sớm. Bà chỉ mới năm mươi bốn tuổi, và không có ai để truyền thừa Pháp. Bà chỉ có năm người đệ tử...
(Xem: 21038)
Ta yêu chuộng sự sống một cách tha thiết, và ta sống hết lòng trong từng khoảnh khắc là do ta có ý thức rõ ràng về sự chết. Cái chết chắc chắn sẽ đến với chúng ta.
(Xem: 18388)
Liên hệ của mọi cá thể trong vũ trụ này là liên hệ duyên sinh. Cái này có mặt là nhờ sự có mặt của những cái khác, không có cá thể nào tự tồn tại riêng biệt...
(Xem: 16117)
Mưa thật nhiều suốt đêm qua, những ánh chớp loé sáng, vẫy vùng trên bầu trời như rượt đuổi nhau với những nụ cười sáng rực. Mưa trút xuống dù không mời gọi, như réo rắc...
(Xem: 16379)
Trăng thì vằng vặc trên cao, trên bầu trời, sáng đẹp. Nhưng, trăng của tấm lòng, của chân tâm, thật là gần gũi, bình dị, trong sáng, thanh tịnh, không một gợn sóng mây...
(Xem: 16710)
Thuở xưa, khi Phạm Dự (Brahmadatta) là vua nước Ba-la-nại (Benares), Bồ-tát thọ sanh vào đời làm một chú Linh Dương sống trong một bụi cây gần bên hồ nước ở trong cánh rừng.
(Xem: 17823)
Trong học tập cũng như trong công việc, lười biếng, thiếu ý chí, thiếu kiên định là những nguyên nhân đưa đến sự thất bại. Khó tìm đâu trên cõi đời này một người có được thành công mà người đó là một kẻ lười biếng...
(Xem: 20894)
Mình có một đôi chân vững chãi, một đôi mắt sáng và một tấm lòng trong, hãy nương tựa vào mình. Đôi bàn chân sẽ cho bạn phương tiện đi tới...
(Xem: 17639)
Dạo ấy, vào khoảng cuối thập niên 50 và đầu thập niên 60 của thế kỷ trước, Phật học viện Trung phần Hải Đức tại Nha Trang thấy cần phải mở rộng việc đào tạo tăng tài.
(Xem: 17205)
Thời đại ngày nay, trong chúng ta ai mà lại không bận rộn, ai mà lại có dư thì giờ đâu bạn nhỉ? Mặc dù đôi khi tôi cứ nghĩ là chúng ta chỉ tự tìm cho mình sự bận rộn mà thôi!
(Xem: 19858)
Đời như cơn gió bên thềm, mênh mông, vô định. Có cái gì là của mình đâu mà trói buộc? Cứ nhẹ nhàng thôi, như gió bên thềm vậy...
(Xem: 22656)
Sự vững chãi của bạn là một điều nhiệm mầu. Bởi có rất nhiều người đang tin vào bạn, họ sẽ vững chãi theo và niềm tin ấy miên viễn trong tâm thức...
(Xem: 22185)
Xuất gia có nghĩa là ra khỏi nhà, rõ hơn là ra khỏi căn nhà mình đang ở; dứt khoát bỏ mà đi khỏi căn nhà mình đang được chở che bảo bọc, hay đang bị ràng buộc, hệ lụy vương mang.
(Xem: 19356)
Tình yêu không làm cho ai khổ đau, nhưng ở trong đời có quá nhiều người bị khổ đau bởi tình yêu là do trong tình yêu của họ có nội dung của khao khát, chiếm hữu, riêng tư và tình dục.
(Xem: 18096)
Sau bữa ăn trưa, tôi hỏi một vị Tăng sĩ trẻ, Thầy đã ăn xong chưa? Vị ấy trả lời - dạ! con đã ăn xong. Tôi cười và nói, Thầy chưa ăn xong đâu, ngày mai Thầy lại tiếp tục ăn lại...
(Xem: 19320)
Trong đời sống hàng ngày, ta cố ý nói sai sự thật để đánh lừa người khác là chính ta không những chỉ phá hoại và làm thương tổn lời nói của ta, mà chính ta còn làm thương tổnphá hoại sự hiểu biết và nhân cách của ta nữa.
(Xem: 18196)
Bạn biết không? Mọi niềm vui xảy ra trong thế gian đều dẫn đến hậu quả của thất vọng và khổ đau. Tại sao? Vì lòng tham của con người đối với các lạc thú thế gian là vô hạn...
Quảng Cáo Bảo Trợ
free website cloud based tv menu online azimenu
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant