Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Sử Dụng Thần Thông Lợi Bất Cập Hại

03 Tháng Hai 202418:03(Xem: 921)
Sử Dụng Thần Thông Lợi Bất Cập Hại
Sử Dụng Thần Thông Lợi Bất Cập Hại 

Thích Trung  Hữu


kinh hoa nghiem

Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật pháp và cuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn. Một trong những điều đó là việc Ngài khuyên hàng đệ tử không nên sử dụng thần thông trong cuộc sống cũng như trong việc giáo hóa chúng sinh.

Trước đây tôi không hiểu tại sao Đức Phậtlại cấm như vậy, vì tôi thấy rằng thần thông là phương tiện rất hữu hiệu để giúp ích chúng sinh cũng như trong việc giáo hóaThần thông cũng là thước đo về sự tu tập của một người, vì chỉ những người có tu tậpđến mức độ nào đó thì mới đạt được thần thông. Thế nhưng càng ngày tôi lại càng nhận ra những gì Đức Phật dạy là cần thiết, không hề dư thừa. Có thể việc sử dụng thần thông sẽ đem lại một số lợi ích và tác dụngnào đó, nhưng hệ quả tiêu cực của nó thì rất lớn, rất nhiều.

Mục tiêu của tu tập là để giác ngộ và giải thoát. Để đạt mục tiêu cao thượng ấy cần có trí tuệ chứ không phải thần thông. Thật ra, thần thông không khó để đạt được. Trong quá trình tu tập (như tu thiền định), thần thông sẽ sớm xuất hiện trước khi đạt đượcnhững giá trị tâm linh khác. Điều này cũng có nghĩa rằng, khi có thần thông không có nghĩa là hành giả đã chứng ngộ và giải thoát. Người đạt được thần thông vẫn còn vô minhchấp ngãphiền não và khổ đau.

Tại sao phần lớn chúng ta đều thích những khả năng siêu nhiên? Đó là do người ta tò mò, ngưỡng mộ những điều mà bản thân không làm được, nhưng trên tất cả, đó là vì họ muốn cầu những lợi íchthiết thực cho riêng mình. Bản thân người có thần thông (hoặc ra vẻ có thần thông) thì một mặt, họ thích sự ngưỡng mộ của người khác và mặt khác, thông qua sự ngưỡng mộ đó họ sẽ nhận được nhiều danh lợi. Còn những người đến với người có thần thông cũng là để cầu xin được lợi ích vật chất trong đời sống, như cầu hết bệnh, buôn may bán đắt, thăng quan tiến chức…, mấy ai đến với người có thần thông chỉ vì kính trọng đạo hạnhtrí tuệ.

Chính vì thế mà có rất nhiều hiện tượng mê tín dị đoan thường xảy ra. Đặc điểm chung của những hiện tượng này là sự linh thiêngphép mầu, cũng như khả năng ban phát những nhu cầu lợi ích vật chất cho tín đồ và những người đến xin. Nó đánh trúng tâm lý tham lam của con người cho nên được nhiều người theo. Đó chỉ là những trò lừa bịp chứ không phải chân thật. Thế nên Đức Phậtthường quở trách hàng đệ tử sử dụng thần thông, dù là để giúp đời hay giáo hóa, vì Ngài thấy ra những hệ lụy từ thần thôngphép lạ.

Điểm đặc trưng và cao thượng nhất của người tu Phật không phải là thần thông mà là đời sốngthanh thoát, nhẹ nhàng, vượt lên sự ràng buộc của thế giantự tại với tất cả các pháp. Cốt tủy của Phật pháp là chỉ dạy người xa lìa tham sân si để sống một cách chân chínhtăng trưởng phước báu và không đau khổ.

Đối với Đức Phậtthần thông cao nhất chính là giáo hóa thần thông, tức là giáo dục con người hiểu lẽ chánh tà để họ xa lìa việc ác, thực hành việc thiện, đưa đến an lạc trong đời này và đời sauTrái lại, những năng lực siêu nhiên không làm cho người ta được như thế, thậm chí còn có thể làm cho con người tăng thêm lòng tham, chồng chất thêm vô minhngã chấp hoặc dẫn đến hiện tượngcuồng tíntôn sùng cá nhân.

Tiền bạc vật chất thì ai cũng cần. Thông qua lao động chân chínhchúng ta có thể tự nuôi sống bản thân và góp phần cống hiến cho xã hội. Chỉ có những người không chân chính mới nghĩ đến chuyện ban phát hay cầu xin từ những phép mầu. Một người chân chính và cao thượng không dựa trên việc người đó có năng lực siêu nhiên hay không mà chính là cách sống của họ. Dù ai đó có thần thông quảng đại nhưng đối với danh lợi tình tiền vẫn tham đắm thì họ cũng chỉ là một kẻ tầm thường mà thôi.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1542)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1399)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1250)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1324)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1381)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1361)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1481)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(Xem: 1377)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
(Xem: 1442)
Hạnh phúc chính là sự bình an của thân thể và sự yên tĩnh của tâm hồn.
(Xem: 1440)
Cái vòng tròn vô hình lại quay trọn môt vòng, mùa thu lại về với đất trời Bắc Mỹ.
(Xem: 1340)
Trong Trung luận của Bồ tát Long Thọ luận giảng về tánh Không, phần nhiều là những câu phủ định.
(Xem: 1404)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1403)
Mỗi người trong cuộc sống này luôn có một thử thách để chinh phụcvượt qua, đó là gì?
(Xem: 2106)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1453)
Thế gian không có cái gì khổ cả, khổ chỉ là những ảo giác của con người.
(Xem: 1473)
Thực tập nhằm tăng cường khả năng tập trung hoặc chú ý đóng một vai trò quan trọng trong hầu hết các truyền thống tôn giáo lớn.
(Xem: 1332)
Trong phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm thứ nhất của Kinh Hoa Nghiêm, các thiên vương, các thần vương cho đến các Đại Bồ tát nói kệ tán thán Phật
(Xem: 1586)
Về pháp thiền quán vô thường tôi chia sẻ hôm nay, tôi sẽ không bàn đến đại vô thường như là cái chết, sự hủy diệt, sụp đổ hay sự chia ly.
(Xem: 1451)
Sau khi quy y Tam bảo, vì muốn tìm cầu tri thức, tôi đã nỗ lực nghiên cứu kinh điển. Kinh Phật mênh mông như biển cả,
(Xem: 1298)
Sống lâu, khỏe mạnh là một phước báu lớn. Nhưng không phải ai cũng có được phước báo này.
(Xem: 1264)
Ăn chay không thực hành trong tâm lý cứng nhắc, khắc nghiệt mà ăn chay cần duy trì trong một tâm thái an lạc, nhẹ nhàng và hạnh phúc!
(Xem: 1324)
Thiểu dục: là ít muốn. Tri túc: là biết đủ. “Thiểu dục tri túc”, tức là ít ham muốn và biết đủ.
(Xem: 1298)
Biết chế ngự tâm thì sẽ giảm đi hoặc chấm dứt hẳn những tham vọng, cuồng nộ, sân hận, bẳn gắt, ganh tỵ, đố kỵ, si mê...
(Xem: 1446)
Con người khi mất đi, vẫn còn âm hồn như trong đạo Phật vẫn luôn nhắc đến thuyết luân hồi,
(Xem: 1172)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(Xem: 1166)
Người thế gian không biết nên oán trách cha mẹ không có phước nên sanh mình ra khổ.
(Xem: 1211)
"Một thời Đức Phật du hóa tại thành Vương-xá, trong rừng Trúc, vườn Ca-lan-đa. Bấy giờ, Tôn giả Tam-di-đề cũng đi du hóa ở thành Vương-xá, tại Ôn tuyền lâm.
(Xem: 1350)
"Chánh niệm" - Đó là một từ được bàn tán nhiều khi một người lần đầu tiên tìm hiểu về thiền địnhPhật giáo. Chánh niệm là gì?
(Xem: 1374)
Trí huệ là cái mỗi chúng sanh đều vốn có, chỉ vì bị khuất lấp do những che chướng tạm thời, phiền não chướngsở tri chướng, mà không thấy không biết
(Xem: 1128)
Kinh Vu lan, một bản kinh ngắn nhưng hàm súc, tràn đầy ý nghĩa nhân văn, chan chứa đạo lý, thấm đẫm tình người và đặc biệtgiá trị giáo dục nhân cách với đặc trưng hiếu đạo.
(Xem: 1259)
Đôi khi chúng ta sống cùng nhau, đi ngang đời nhau, đối diệnvới nhau nhưng lại chẳng thấy nhau.
(Xem: 1181)
Các đặc điểm hợp lý trong giáo lý Phật giáo sơ kỳ đã có sức hấp dẫn lớn đối với các học giả châu Âu khi họ nghiên cứu vềPhật giáo.
(Xem: 1360)
Là người Việt Nam, chúng ta ai lại không biết bài hát “Lòng mẹ” của Y Vân với những câu hát như “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình rạt rào/ Tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào…”.
(Xem: 1334)
Ngày Lễ Vu Lan để mỗi người con nhớ đến sự hy sinh, tình thương bao lacông ơn của Cha Mẹ,
(Xem: 1484)
Ngày lễ Vu Lan, những người con ở xa thương nhớ cha mẹ, lòng vẫn luôn hướng về cha mẹ, hướng về nơi chôn nhau cắt rốn của mình.
(Xem: 1576)
Bám chấp là nguyên nhân của mọi đau khổ, phiền não. Đó là những gì làm phát sinh trạng thái hữu và sinh.
(Xem: 1328)
Đạo Phậttôn giáo từ bỏ bạo lực một cách mạnh mẽ nhất trong mọi hình thức.
(Xem: 1278)
Trong mọi truyền thống Phật giáo đều có việc tụng kinh, từ Nam tông, Bắc tông cho đến Mật tông.
(Xem: 1431)
“Hãy ví khổ như rác và hạnh phúc như những đoá hoa… Chuyển hóa khổ đau chính là biết cách biến rác trở lại thành hoa” (Thiền sư Nhất Hạnh).
(Xem: 1481)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rùng.
(Xem: 1392)
Bất kỳ ai trên thế gian này đều mong muốn tìm cho mình hạnh phúc, an lạc, mà những niềm vui, lạc thú trên đời này rất nhiều.
(Xem: 1731)
Câu hỏi là làm thế nào để đem lại sự an tĩnhan lạc nội tâm trong đời sống hằng ngày của bạn
(Xem: 1370)
Phật giáo thời Hậu Lê tuy không phát triển mạnh như thời Lý-Trần, nhưng thể hiện nên nét đặc sắc về nhiều mặt của Phật giáo
(Xem: 1345)
Những phương cách để đối phó với bệnh khi nó xảy ra là gì? Bình thường phản ứng của chúng tacảm thấy ...
(Xem: 1399)
Phật pháp quả là biển học vô bờ, muôn ngàn pháp môn phương tiện, tùy theo căn cơ trình độ chúng ta chọn và thích hợp với các pháp môn tu khác nhau.
(Xem: 1233)
Hiện nay, vấn đề Bảo vệ Môi trường đang rất được quan tâm ở khắp các nước trên thế giới.
(Xem: 1267)
Hiện nay, ô nhiễm môi trường ngày càng trở nên nghiêm trọngViệt Nam và trên thế giới.
(Xem: 1393)
Để lĩnh hội trọn vẹn “cảm giác an lạc” sinh khởi nhờ thiền định, đòi hỏi các thiền sinh phải có một nền tảng định vững chắc.
(Xem: 1519)
Một hôm Ngài A Nan hỏi Đức Phật ? Bạch Đức Thế Tôn, sau khi một chúng sanh qua đời họ sẽ tái sanh về đâu?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant