Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Gặp Gỡ Các Thiên Sứ

09 Tháng Ba 202419:04(Xem: 626)
Gặp Gỡ Các Thiên Sứ

Gặp Gỡ Các Thiên Sứ
(Meeting the Divine Messengers)

Bhikkhu Bodhi

Nguyên Nhật Trần Như Mai

 2



Huyền thoại truyền thống về cuộc đơi Đức Phật kể lại rằng trong suốt thời niên thiếu và vào tuổi trưởng thànhthái tử Siddhattha (Tất-Đạt-Đa), tức là Bồ Tát( lúc chưa thành Phật ), sống hoàn toàn không biết gì về những sự kiện sơ đẳng liên quan đến  hệ lụycủa kiếp người. Vì lo lắng  bảo vệ cho thái tử khỏi phải chứng kiến những cảnh khổ đau, phụ vương của ngài đã thiếu khôn ngoan khi gìn giữ  ngài như một người hoàn toàn không biết gì về thế giới bên ngoài. Bị giữ chân trong những lâu đài tráng lệ, được cung cấp mọi lạc thú trần gian, và luôn có bạn bè vui nhộn vây quanh, thái tử đã chẳng hề có chút nghi ngờ nào rằng cuộc sống không có gì khác  hơn là những cuộc vui và tiệc tùng lễ hội bất tận. Chỉ trong ngày định mệnh ấy, lúc thái tử được 29 tuổi,  vì tò mò thái tử đã đi ra khỏi cổng thành của cung điện và chứng kiến bốn “thiên sứ”, sự kiện này đã làm thay đổi số phận của ngài. Thiên sứ đầu tiên là một người già yếu, thứ hai là một người bệnh tật, và thứ ba  là một tử thi, tất cả đã dạy cho ngài biết sự thật kinh hoàng về tuổi già, bệnh tật và cái chết; và thiên sứ thứ tư là một du sĩ khổ hạnh, người hé lộ cho ngài biết về sự hiện hữu của một con đườngvượt thoát mọi  khổ đau.

Câu chuyện hấp dẫn này, đã nuôi dưỡng đức tin của Phật tử qua nhiều thế kỷ, và trong cốt lõi đã trân quý chứa đựng một sự thật tâm lý sâu sắc . Trong ngôn ngữ huyền thoại, chuyện đã kể cho chúng ta không những chỉ là những sự kiện đã xảy ra nhiều thế kỷ trước, mà còn là một tiến trình thức tỉnh mà mỗi chúng ta phải trải qua, nếu Giáo pháp ấy trở thành hiện thưc trong  chính  mỗi chúng ta. Bên dưới lớp vỏ biểu tượng của một huyền thoại xưa cổ, chúng ta có thể thấy rằng tuổi thanh niên cũa thái tử Siddhattha trải qua trong cung điện cũng không khác gì nhiều với lối sống mà phần lớn chúng ta ngày nay đã trải qua suốt cuộc đời  - và đáng buồn thay, thường là kéo dài cho đến khi quá muộn để có thể bắt đầu  chuyển qua một hướng mới. Nhà ở của chúng ta có thể khôngphải là cung điện hoàng gia, và tài sản của chúng ta có thể chẳng có gì đáng kể so với tài sản của một vị vua miền bắc Ấn độ, nhưng chúng ta cùng có chung với thái tử Siddhattha sự  thích thú ( và thường là cố ý ) lãng quên những thực tại phủ phàng đang liên tục thúc đẩy sự chú ý của chúng ta.

Nếu giáo pháp là những gì khác hơn  bối cảnh nhạt nhẽo, buồn chán của một cuộc sống thoải mái, nếu giáo pháp trở thành tiếng nói khơi nguồn cảm hứng, đôi lúc khó nghe, để lái chúng ta đến với con đường tỉnh thức cao thượng, thì chính chúng ta cần phải tích cực noi gương Bồ Tát trong quá trình trưởng thành của ngài. Tham gia vào cuộc hành trình của ngài bên ngoài các bức tường thành của cung điện – những bức tường định kiến đầy tự tin của chúng ta – chúng ta phải tận mắt nhìn thấy các thiện sứ mà chúng ta thường bỏ qua, vì mắt chúng ta đang dán chặt vào  “những chuyện quan trọng hơn”, nghĩa là  những mục tiêu và mối quan tâm đời thường.

Đức Phật nói rằng ít người cảm thấy bị kích động  bởi những gì thật sự đáng bị kích động , so với số đông những người không hề bị kích động. Những động lưc dẫn đến sự tỉnh thức thúc ép chúng ta từ mọi phía, tuy nhiên thay vì công nhận chúng, chúng ta thường đáp ứng bằng cách phủ thêm một lớp áo để bảo vệ chúng ta khỏi bị chúng làm tổn thương. Lời khẳng định này đã được mặc nhiên chứng minh, bởi hằng loạt các cuộc thảo luận và văn bản gần đây nói về vấn đề lão hóa, các bệnh tật đe dọa mạng sống và những cách tiếp cận khác nhau đối với cái chết và vấn đề tử vongTuy nhiên sự thức tỉnh cởi  mở và chân thật vẫn chưa đủ để các thiên sứ truyền đạt thông điệp của họ. Để truyền đạt thông điệp của các thiên sứ,  một thông điệp có khả năng sách tấn chúng ta đi đến con đường giải thoát, có nhiều việc hơn nữa cần phải làm. Chúng ta cần phải đương đầu với tuổi già, bệnh tật và cái chết, không đơn giản như là những thực tại không thể trốn tránh mà chúng ta phải cố gắng vượt qua trên thực tế, nhưng chúng ta cần phải xem chúng như là những sứ giả từ cõi trên, từ bến bờ xa xăm, đang tiết lộ cho chúng ta biết nhiều chiều hướng ý nghĩa mới.

Sự tiết lộ này xảy ra ở hai cấp độ. Trước tiên, để trở thành các thiên sứ, những sự thật về tuổi già, bệnh tật và cái chết phải đánh động chúng ta để  ta  tỉnh thức về bản chất mong manh, nguy hiểm của đời sống hằng ngày. Ba thiên sứ đầu tiên phải gây ấn tượng mạnh vào tâm trí chúng ta về sự thiếu sót trầm trọng xuyên suốt mọi vấn đề đáng quan tâm trong đời sống của ta, trải rộng đến toàn thể mọi hiện tượng hữu vi . Từ đó chúng trở thành những cánh cửa mở ra chân lý  đầu tiên về Khổ , mà Đức Phật đã nói là chân lý này không chỉ bao gồm sinh, già, bệnh, chết, không những chỉ là buồn khổ, sầu biđau đớnưu phiền mà còn bao gồm  tất cả những yếu tố thể chất và tinh thần đã tạo ra con người chúng ta trong thế giới này. Vị du sĩ khổ hạnh phải trở thành cái gì khác hơn là một đối tượng kỳ lạ khiến ta tò mò, vị ấy phục vụ như một người nhắc nhở chúng ta rằng con đườnggiải thoát đi xuyên suốt cảnh tượng khắc khổ của việc xuất gia và làm chủ nội tâm. Được bao bọc trong tấm y màu vàng đất, nhân vật trầm mặc và đáng kính trọng này phục vụ như là một dấu chỉ đến chân lý cao thượng thứ tư, chân lý về con đường giải thoát, và đỉnh cao là chân lý về sự chấm dứt khổ.

Khi chúng ta gặp các thiên sứ ở cấp độ này, họ trở thành những chất xúc tác tạo nên sự chuyển hóa nội tâm sâu sắc trong ta. Chúng ta nhận thức rằng bởi vì chúng ta  yếu đuối  và không thể nào tránh khỏi cái chết,  ta phải tạo ra những thay đổi quyết liệt về các vấn đề ưu tiên của sự hiện hữuvà giá trị cá nhận. Thay vì để cho cuộc sống của ta bị những chuyện phù du nhỏ nhặt chi phối, bởi những chuyện nay còn mai mất, ta cần phải quan tâm đến  “những gì thật sự quan trọng”, đến những mục đích và hành động có ảnh hưởng lâu dài đến số phận của chúng ta trong nhiều kiếp, và mục tiêu tối hậu của chúng ta khi ta còn  lang thang trong vòng luân hồi sanh tử.

Trước khi việc tái thẩm định giá trị xảy ra, chúng ta thường sống trong một tình trạng mà Đức Phậtgọi là ‘ buông lung phóng dật”( pamăda). Tưởng tượng rằng chúng ta bất tử và thế giới là sân chơi  của riêng ta, ta dành mọi năng lương của ta vào “ các pháp thế gian” như là tích lũy tài sản, hưởng thụ những dục lạc giác quanđạt được địa vị xã hội, và săn đuổi theo danh vọng. Thuốc chữa bệnh buông lung phóng dật có cùng phẩm chất như  đã khởi lên trong tâm trí Bồ Tát khi ngài gặp vị thiên sứ trên đường phố của thành Kapilavatthu  (Ca-tỳ-la-vệ ). Phẩm chất này, trong tiếng Pali gọi là samvega nghĩa là “ một cảm giác cấp bách “, một sự kích động nội tâm hay là kinh hoàng, không cho phép chúng ta giữ nguyên thái độ hài lòng với thói quen thích nghi  trong đời sống thế tục. Thay vào đó nó thúc đẩy chúng ta bắt đầu cuộc hành trình của kẻ sống không gia đình, dù là theo nghĩa đen hay nghĩa bóng. Như Thái tử Siddharttha đã làm sau khi gặp vị khất sĩ lang thang không nhà, chúng ta cũng phải bỏ lại đằng sau những lâu đài ấm cúng của mình và dấn thân vào các khu rừng hoang xa lạ, để tích cực tìm ra giải pháp đích thật cho số phận hiện hữu của chúng ta.

Chính ở điểm này mà chức năng thứ hai của các vị thiên sứ trở thành nổi bật. Vì già , bệnh và chết không chỉ là biểu tượng của bản chất bất toại nguyện của sự hiện hữu ở thế gian, nhưng còn là dấu chỉ của một thực tại sâu sắc hơn thế nữa. Theo huyền thoại truyền thống thì bốn vị thiên sứ này là chư thiên giả dạng. Các vị thiên  này đã được vua trời gởi xuống thế gian để thức tỉnh Bồ Tát về sứ mạng lịch sử của ngài, và một khi họ hoàn thành sứ mạng đem thông điệp đến cho Bồ Tát, họ sẽ trở lại hình tướng của chư thiên. Điều này cho chúng ta thấy rằng lời dạy cuối cùng của Giáo Pháp không phải là đầu hàng, không phải là một mênh lệnh buộc ta  cam chịu thực tại tàn nhẫn của kiếp người, thậm chí cũng không phải chấp nhận giới hạn của chúng ta bằng một tâm thái vui mừngTính chất không thể tránh được của già, bệnh và chết là thông điệp đầu tiên của Giáo Pháp,  thông báo rằng ngôi nhà của chúng ta đang bốc cháy. Thông điệp cuối cùng, do vị thiên sứ thứ tư gợi ý, là một điều gì khác : một tiếng reo vui tin tưởng rằng có một nơi an toàn, một khoảng đất trời rộng mở bên kia ngôi nhà lửa , và một dấu hiệu chỉ đường để ta thoát ra khỏi nhà lửa.

Nếu trong tiến trình thức tỉnh, .chúng ta phải đối mặt với già, bệnh, chết,  đó là  vì nơi an toàn chỉ có thể đạt được bằng cách thật tâm đương đầu với sự thật phủ phàng về thân phận con ngườiChúng ta không thể đạt đến nơi an toàn bằng cách giả vờ xem ngọn lửa đang bao trùm ngôi nhà của chúng ta như là những tràng hoachúng ta phải nhìn chúng đúng như thật, như là những ngọn lửa thật. Tuy nhiên, khi chúng ta nhìn những vị thiên sứ này một cách chính xác, không  ngượng ngùng hay sợ hãichúng ta sẽ thấy rằng khuôn mặt của họ trải qua một sự biến đổi bất ngờ.  Trước mắtchúng ta, bằng những mức độ tinh tế, họ biến thành một khuôn mặt khác – khuôn mặt của Đức Phật , với nụ cười an bình chiến thắng trước đoàn quân của Ma Vương, trước bầy quỷ Dục Vọng và Tử Thần. Các thiên sứ chỉ cho chúng ta thấy những gì bên kia cái tạm bợ phù du, đó là một trạng thái  thực tại  nơi không còn già, không còn bệnh và không còn chết. Đây là mục tiêu và đích đến cuối cùng của Phật đạo – đó là Niết Bàn, nơi Không Già, Không Bệnh,  Không Chết. Chính là để hướng dẫn chúng ta đí đến nơi ấy mà các thiên sứ đã xuất hiện giữa chúng ta và thông điệp của họ là tin vui báo cho chúng ta biết rằng mục tiêu này đang sẵn sàng chờ đón chúng ta.

Sources : Inquiring Mind-volume 25 # 1- fall-2008-Heavenly Messengers

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 742)
Chúng ta thường nghe dặn dò rằng, hãy tu đi, đừng nói nhiều, đừng lý luận nhiều, đừng dựa vào chữ nghĩa biện biệt sẽ dễ loạn tâm
(Xem: 848)
Trước khi tìm hiểu chủ đề “Nương thuyền Bát nhã là gì? ”, chúng ta cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của từ Bát nhã.
(Xem: 800)
Từ “Phật” (Buddha) đã được biết đến và lưu truyền trước khi Đức Phật xuất hiệnẤn Độ.
(Xem: 764)
Đức Phật, Ngài là con người, bằng xương bằng thịt, như bao nhiêu con người khác...nhưng Ngài là một con người giác ngộ, tỉnh thức...
(Xem: 773)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 776)
Trời có lúc nắng lúc mưa, người có lúc may mắn hoặc xui xẻo. Nhưng không có cái gì tự dưng sinh ra hay mất đi, tất cả đều có lý do của do của nó.
(Xem: 675)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 939)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1250)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1416)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 1159)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1480)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 945)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 851)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 955)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 978)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 943)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 967)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 1095)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 918)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 1063)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 1056)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 977)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 1015)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 935)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1093)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 1040)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 960)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 1061)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 986)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 926)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 1025)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 964)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1211)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 993)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1085)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1236)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1675)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1243)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1316)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1187)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 1046)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 1008)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 1033)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 884)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1561)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1435)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1406)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1346)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1450)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant