Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Bài Mới Nhất trang Văn Học
Điền Email để nhận bài mới

Gương Pháp

18 Tháng Tám 202418:53(Xem: 2013)
Gương Pháp

Gương Pháp

Thích Nguyên Hùng

chu tieu 9



Phàm có sinh thì có tử, đó là lẽ thường trong cuộc đờiVạn sự vạn vật đều vận hành theo quy luật sinh ra, tồn tại, thay đổi, hoại diệt (gọi là sinh, trụ, dị, diệt) liên tụcmiên viễnvô thuỷ, vô chung. Cho nên, cái chết là lẽ tự nhiên, đương nhiên của tiến trình sự sống, không có gì phải lo lắngsợ hãi và lấy làm quan trọng vấn đề. Vả chăng, như Khổng Tử nói: "Sống còn chưa biết thì biết chết làm gì?"

Thế nhưng, ai trong chúng ta cũng hơn một lần nghĩ rằng sau khi chết mình sẽ đi về đâu? Không ít lần ngồi tư lự chúng ta chợt nghĩ không biết cha mẹ, người thân của mình đã qua đời giờ đang ở chốn nào? Tôn giả A-nan cũng như vậy. Một hôm, ở chỗ thanh vắngtôn giảlặng yên suy nghĩ, ở trong thôn Kiền-chùy có nhiều cư sĩ vừa mới qua đời, không biết họ tái sinh về chốn nào? Suy nghĩ như vậy rồi tôn giả bèn đến hỏi Đức PhậtĐức Phật nói cho tôn giả A-nan biết về chỗ tái sinh của những cư sĩ ấy xong thì rầy: "Này A-nan, phàm có sinh thì có chết, đó là lẽ thường của cuộc đời, có gì lạ đâu. Nếu thấy mỗi người chết thầy đều đến hỏi Như Lai, như vậy chẳng phải là quấy rầy ư?" (Trường A-hàm, Kinh Du hành).

Quả thật, nếu việc gì và thấy ai chết cũng hỏi Phật họ sinh về đâu thì quấy rầy Ngài quá! Nhưng mà ngoài Đức Đại Giác Thế Tôn chúng ta biết còn hỏi ai? May thay, dù la rầy tôn giảA-nan, Đức Phật vẫn từ bi chỉ cho tôn giả cũng như chúng sinh đời sau tự biết rõ chỗ thọ sinh của chính mình và người khác. Kinh ghi: "A-nan! Nay Như Lai sẽ nói cho thầy về Gương pháp để các Thánh đệ tử biết chỗ thọ sinh, dứt hết ba đường dữchứng quả Tu-đà-hoàn, không quá bảy đời sẽ tận cùng giới hạn của khổ và cũng có thể nói việc ấy cho người khác" (Trường A-hàm, Kinh Du hành).

Gương pháp, tiếng Hán gọi là Pháp kính (法 鏡), tiếng Pali là Dhammādāsa, nghĩa là tấm gương pháp, tấm gương soi rọi sự thật. Chỉ cần nhìn vào tấm gương này nếu thấy mình có trong đó, thấy mình được phản chiếu trong đó thì biết một cách chắc chắn rằng ba đường ácđịa ngụcngạ quỷsúc sinh sẽ không có mặt mình. Ngược lại, nếu nhìn vào tấm gương này mà không thấy có mình, mình không được phản chiếu trong đó thì biết một cách chắc chắnrằng mình sẽ đọa lạc một trong ba đường ác. Vậy Gương pháp đó là gì? Phật dạy: "Này A-nan! Gương pháp đó là, Thánh đệ tử đạt được niềm tin bất hoạihoan hỷ tin Phật là đấng Như LaiVô Sở TrướcĐẳng Chánh Giác, đầy đủ mười hiệu; hoan hỷ tin Pháp là giáo phápchân chánh vi diệu, do Phật tuyên thuyết, vượt thoát thời gian, chỉ bày đường đến Niết-bàn, được người trí thực hành theo; hoan hỷ tin Tăng là đoàn thể những người khéo sống hòa đồng, hành động chất trực, không hề dối tráđạo quả thành tựu, trên dưới hòa thuận, đầy đủ pháp thân, hướng Tu-đà-hoàn, đắc quả Tu-đà-hoàn, hướng Tư-đà-hàm, đắc quả Tư-đà-hàm, hướng A-na-hàm, đắc quả A-na-hàm, hướng A-la-hán, đắc quả A-la-hán, đó là bốn đôi tám bậc, chính là chúng Hiền Thánh của Như Lai, rất đáng để cung kính, là ruộng phước thế gianhoan hỷ tin giới của Hiền Thánh là thanh tịnh không nhiễm, không có khiếm khuyết, bậc minh triết hành theo, đắc định Tam-muội.

"A-nan! Đó là Gương pháp để Thánh đệ tử biết chỗ thọ sanh, thoát ba đường ácđắc quả Tu-đà-hoàn, không quá bảy lần tái sanh ắt sẽ dứt sạch khổ đau và cũng có thể nói với người khác như thế" (Trường A-hàm, Kinh Du hành).

Như vậy, Gương pháp được nói ở đây là Tứ bất hoại tín, là Bốn niềm tin không bao giờ thay đổi, không bao giờ hư hoại, hay không bị thối chuyển đối với Phật, Pháp, Tăng và Thánh giới. Bốn niềm tin này như một tấm gương, và người Phật tử sau khi quy y Tam bảophát nguyệngiữ gìn Năm giới, được bổn sư trao cho tấm phái quy y, hay giấy chứng nhận quy y, chính là trao cho chúng ta một tấm gương. Chúng ta đem tấm gương này về treo trong nhà ở vị trítrang trọng nhất để hằng ngày chúng ta tự soi mình vào đó, để xem với bốn pháp mình đã quy y mình có giữ gìn trọn vẹn không? Nếu được trọn vẹn, được thanh tịnh, được không lay chuyển tức là mình đã đạt được niềm tin bất hoại, ngay đó mình tự biết ba đường ác không còn có mặt mình, tức là được dự vào dòng Thánh, chứng quả Dự lưu.

Vậy thìmột đời người Phật tử, đôi khi không cần tu học gì nhiều, mà chỉ cần giữ vững niềm tin với Tam bảo và giữ trọn vẹn Năm giới là đã thoát ly ba đường ác rồi! Hơn nữa, nếu người Phật tử nào "thành tựu bốn pháp thanh tịnhvững chắc mà muốn cầu được sống lâu liền được sống lâu, cầu có được sắc đẹp, sức khỏe, niềm vui, biện tàitự do thì đều được như ý"; người Phật tử nào "thành tựu bốn pháp thanh tịnhvững chắc thì ở trong loài người sẽ không chịu cảnh nghèo khốn, không bị đói rét, xin ăn, mà tự nhiên giàu sang sung túc" (Kinh Tạp A-hàm).

Rõ ràng, với Bốn niềm tin bất hoại, người Phật tử gặt hái được mọi điều tốt đẹp trong cuộc sống hiện tại cũng như đời sau. Cho nên, Đức Phật khuyên các thầy nên dạy pháp này cho Phật tử. Kinh ghi: "Các thầy nên khởi tâm thương xót và tâm từ bi. Đối với những gì các thầy giảng nói, nếu có người nào thích nghe và thích thọ trì thì các thầy hãy vì họ mà giảng nói về bốn pháp thanh tịnhvững chắc giúp cho họ được chứng nhập và an trụ. Bốn pháp ấy là những gì? Đó là thành tựu niềm tin thanh tịnhvững chắc đối với Phật, đối với Pháp, đối với Tăng và đối với Thánh giới. Vì sao như vậy? Bởi vì dù cho một trong bốn đại là đất, nước, gió, lửa có biến đổi hay tăng giảm thì bốn pháp thanh tịnhvững chắc này chưa từng biến đổihay tăng giảm. Bốn pháp này không biến đổi hay tăng giảm, nghĩa là vị Thánh đệ tử đa vănđã thành tựu niềm tin thanh tịnh, không thay đổi đối với Phật rồi thì nhất định không xảy ra sự việc rơi vào địa ngụcngạ quỷ hay súc sanh" (Kinh Tạp A-hàm).

Phát nguyện quy y Tam bảo và giữ gìn năm giới là khó, mà để thành tựu niềm tin không lay chuyển đối với Tam bảo và Thánh giới lại càng khó hơn. Thực tế cho thấy, nhiều người đã quy y và thọ giới, đã trở thành Phật tử, nhưng niềm tin với Tam bảo và khả năng giữ gìn trọn vẹn năm giới chưa thật sự "bất hoại", dễ bị lung lạc, lay chuyển, dễ bị tác động bởi thị phi, danh lợi… Hơn nữa, dù có tin Phật nhưng không hiểu Phật là đấng Như LaiVô Sở TrướcĐẳng Chánh Giác, đầy đủ mười hiệu, là Thầy dẫn đường mà xem Phật như đấng thần linhban phước giáng họagia hộ độ trì để lễ lạy cầu xin. Tin Pháp nhưng không hiểu Pháp là giáo pháp chân chánh vi diệu, do Phật tuyên thuyết, vượt thoát thời gian, chỉ bày đường đến Niết-bàn, được người trí thực hành theo mà xem Pháp như đối tượng siêu nhiên, tụng đọc, lễ lạysẽ được phước, sẽ được siêu, sẽ được an, nên cứ tụng đọc theo mùa; ma chay thì tụng Di-đà, Địa tạng, hiếu hỉ thì tụng Vu-lan Báo âncầu an thì tụng Phổ môn, đầu năm thì tụng Dược sư… Tin Tăng nhưng hiểu Tăng là đoàn thể những người khéo sống hòa đồng, hành động chất trực, không hề dối tráđạo quả thành tựu, trên dưới hòa thuận, đầy đủ pháp thân mà chỉ biết ‘thầy mình’ có chùa, có chức, có học vị… Tin giới nhưng không thực hành giới để đời sống được thanh tịnh, không nhiễm… Do đó, rất ít người Phật tử thành tựu được niềm tin bất hoại.

Cho nên, người Phật tử đã quy y Tam bảo và phát nguyện giữ gìn năm giới là đã tiếp nhậntấm Gương pháp. Hãy tự soi mình vào đó để thấy cuộc đời mình sẽ đi lên hay đi xuống. Chỉ cần soi mình vào tấm Gương pháp là sẽ nhận biết được mình đi về đâu. Nếu các bạn soi mình vào Gương pháp và thấy mình hiện ra rõ ràng trong tấm Gương pháp ấy, nghĩa là các bạn đã thành tựu niềm tin không lay chuyển đối với Tam bảo và Thánh giớichắc chắn bạn đã chứng quả Dự lưu.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 3262)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 3663)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 3963)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 4000)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 3665)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 3732)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 3980)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 3860)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 3620)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 3777)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 3512)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 3613)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 3806)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 3900)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 3961)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 4608)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 4185)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 4516)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 3862)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 3575)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 3640)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 3838)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 3663)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 3836)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 3829)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 3878)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 3746)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 4170)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 3988)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 4282)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 4156)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 3395)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 3652)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 3794)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 4300)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 4025)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(Xem: 4030)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
(Xem: 3918)
Hạnh phúc chính là sự bình an của thân thể và sự yên tĩnh của tâm hồn.
(Xem: 3985)
Cái vòng tròn vô hình lại quay trọn môt vòng, mùa thu lại về với đất trời Bắc Mỹ.
(Xem: 3912)
Trong Trung luận của Bồ tát Long Thọ luận giảng về tánh Không, phần nhiều là những câu phủ định.
(Xem: 3737)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 4188)
Mỗi người trong cuộc sống này luôn có một thử thách để chinh phụcvượt qua, đó là gì?
(Xem: 5969)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 4391)
Thế gian không có cái gì khổ cả, khổ chỉ là những ảo giác của con người.
(Xem: 4638)
Thực tập nhằm tăng cường khả năng tập trung hoặc chú ý đóng một vai trò quan trọng trong hầu hết các truyền thống tôn giáo lớn.
(Xem: 3873)
Trong phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm thứ nhất của Kinh Hoa Nghiêm, các thiên vương, các thần vương cho đến các Đại Bồ tát nói kệ tán thán Phật
(Xem: 4340)
Về pháp thiền quán vô thường tôi chia sẻ hôm nay, tôi sẽ không bàn đến đại vô thường như là cái chết, sự hủy diệt, sụp đổ hay sự chia ly.
(Xem: 4640)
Sau khi quy y Tam bảo, vì muốn tìm cầu tri thức, tôi đã nỗ lực nghiên cứu kinh điển. Kinh Phật mênh mông như biển cả,
(Xem: 4094)
Sống lâu, khỏe mạnh là một phước báu lớn. Nhưng không phải ai cũng có được phước báo này.
Quảng Cáo Bảo Trợ
free website cloud based tv menu online azimenu
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant