Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Nơi dòng sông đi qua

24 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 16764)
Nơi dòng sông đi qua

Con sông hiền hòa chảy qua bao miền thâm u của miền Trung du Ấn Độ mà dòng lịch sử dung rũi đã cho nó khoát lên mình một sứ mạng thiêng liêng cao cả. Con sông Ni Liên Thiền, tên gọi đó đã gắn liền với sự chứng đắc của một bực Thánh nhân xuất thế - Thái tử Tất-đạt-đa, Người đã đến bên dòng sông này sau sáu năm tu khổ hạnh. Và cuộc đời của một dòng sông bắt đầu có tiếng nói riêng từ dạo ấy.

Vậy là hơn hai mươi lăm thế kỷ trôi qua rồi. Chừng ấy thời gian với biết bao biến chuyển thay đổi của dòng đời, mà vết tích của một con sông vẫn còn đó đủ để khơi dậy niềm tin và hướng đến cho mỗi ý tưởng và bước chân người tìm tới. Rồi một lần nào đó, con sông đã kể lại sự kiện mà nó từng là chứng nhân đặc biệt trong suốt thời kỳ Chánh pháp hiện hữu tại thế gian.


Vào ngày cuối Đông, cuộc sống thâm trầm và tẻ nhạt của những cư dân sống quanh ven rừng bỗng nhiên sôi động hẳn lên. Mọi người kháo với nhau:

“Bên dòng sông Ni Liên Thiền đang nở đầy hoa… đủ sắc đủ màu trông đẹp lắm!” Hoa rừng nở không có gì lạ. Song lúc này là mùa Đông, ở xứ Ưu-lâu-tần-loa này đang hứng chịu trận bão tuyết kéo dài. Đất đai co rúm cơ hồ để được ngũ yên mà chờ đợi cho qua mùa băng giá. Cây cối chỉ còn lại vài cành khẳng khiu khô khốc, màu xanh của lá của hoa lúc này nếu có cũng bị bao phủ hết bởi lớp băng dày đặc.

Ấy vậy mà… họ bảo có cả muôn loại chim cùng hát vang nơi khu rừng ấy nữa. Ồ! Chim ở đây về mùa Đông, chúng thường bay về phương Nam tìm nơi ấm áp hơn để trú ẩn. Hoa nở chim hót, quả là một điều chưa từng thấy ở xứ sở mang đầy tính chất kỳ bí pha trộn của mọi thứ tôn giáo. Rồi cũng có ai đó lên tiếng trước: “Thái tử Tất-đạt-đa vừa chứng đạo bên khu rừng ấy, nên mới có điềm lành xuất hiện.”

Những người dân lam lủ nhưng lại rất thông thái về các hiện tượng tâm linh huyền bí. Họ kể cho nhau nghe về cuộc đờicon đường tu tập của một vị Thái tử tu hành vừa đắc quả và cả lời tiên đoán của vị tiên A-tư-đà năm xưa khi Thái tử vừa ra đời nơi xứ Ca-tì-la-vệ xa xôi nào đó. Dòng sông yên lặng nghe họ nói chuyện. Không ai nghĩ hoặc biết được chính nó là kẻ duy nhất chứng kiến toàn bộ quá trình tu tậpchứng đắc của Thái tử. Mấy năm trước, Thái tử Tất-đạt-đa đã tìm đến bên dòng sông vắng vẻ này, sau nhiều lần tầm sư học đạo nhưng không nhận thấy pháp tu nào có thể đưa đến một chân trời an lạc giải thoát toàn mỹ.

Vì thế, dòng sông cảm thấy mình thật diễm phúc khi được Thái tử chọn làm điểm dừng chân cuối cùng cho giai đoạn tiến tu, đắc đạo:

Ở nơi đây Người đã tới,
Dòng sông thôi yên lặng với tháng ngày
Ở nơi đây Người đã thấy
Vầng trăng thanh soi sáng bấy đêm dài.

Vai trò của dòng sông chỉ có thế thôi và nó chẳng mong cầu gì hơn nữa. Trước khi dòng chảy này đổ vào con sông Hằng bao la huyền bí, nó đã đi qua bao khu rừng yên tịnh, nhiều đất nước mênh mông trù phú và những làng mạc nghèo khổ xa xôi. Để rồi một hôm, sông chợt thấy mặt đất như tỏa sáng hơn, chim chóc các nơi kéo về làm tổ nhiều hơn. Dòng sông nhìn thấy bóng vị Sa môn ngồi tư duy tịnh niệm bên dưới một gốc cây cao tỏa bóng. Ở đây cũng từng đón nhận nhiều Sa môn khác đến tu tập, chắc hẳn bởi không khí trong lành nằm bên dòng sông hiền hòa quanh năm quạnh vắng.

Nhưng với vị Sa môn khổ hạnh này, sông cảm nhận ra sự khác biệt hơn hết với những ai đã từng đến đây. Cũng vóc dáng gầy khô trong mảnh y vàng bạc thếch, nhưng sắc tướng tỏa sáng như trăng rằm, nội tâm tỉnh lặng thông thái đến diệu kỳ. Người tu tập mỗi ngày đứng lên, đi lại đôi phút và chỉ ăn vài hạt đậu mè của chim rừng tha về vương vãi bên các gốc cây. Đã sáu năm rồi, Sa môn Cù-đàm – Dân làng vẫn gọi như vậy – chưa lần bước đến bên dòng sông, hoặc giả như có nhìn qua con sông hay các vật thể nào khác thì cũng chỉ nhìn mà thôi, trong khi cõi lòng Người đang bận dõi tìm bao ý hướng diệu mầu, một con đường thiết thực thoát khổ cho muôn loài.

Sáu năm ròng rã chuyên tâm tu khổ hạnh như vậy, Sa môn đuối sức dần. Một hôm, Sông thấy Người ngất đi bên bìa rừng. Nó vội lớn tiếng gọi nhưng chỉ nghe tiếng xào xạc của lá cây rừng xung quanh đáp lại, cùng với tiếng của dòng sông chảy miên man tuôn mãi giữa chốn đại ngàn. Bỗng một cô gái chăn cừu đã nghe tiếng dòng sông hay chỉ tình cờ đi ngang qua nhìn thấy, liền chạy đến bên Người. Cô vội lấy bát đi xuống sông rửa sạch, vắt lấy sữa cừu, sau đó đổ vài giọt sữa vào miệng Sa môn. Người tỉnh dần rồi mở mắt ra nhìn. Cô gái lúc này - vì thuộc dòng tộc thấp kém hơn – nên đặt bát sữa từ xa để dâng cúng cho Sa môn.

Nhờ bát sữa Sa môn Cù-đàm hồi phục sức lực nhanh chóng. Dùng xong, Người đặt bát nơi gốc cây và thầm chú nguyện cho cô gái chăn cừu. Lúc này mặt trời dần ngã bóng về Tây, mọi vật hối hả trước khi cảnh chiều đông buông xuống. Ngắm nhìn hoàng hôn bên dòng sông giây lát, Người bèn lội xuống tắm rửa. Dòng sông trong xanh mang hương vị nồng dịu của muôn thứ cỏ hoa khô đọng lại, càng làm cho Người sảng khoái minh mẫn. Sau khi bước lên khỏi dòng sông, Người đã nhận ra chân lý diệu mầu, và cần trải nghiệm thêm một giai đoạn ngắn nữa để chứng thực. Quán xét lại sự tu tập của mình lâu nay, Sa môn đã nhận được một điều chính yếu: Không thể có sự chứng ngộ trong một thân thể gầy mòn mệt mỏi cùng tâm hồn khô cứng như sỏi đá. Con đường trung đạo là bước khởi đầu để vươn tới một chân trời an lạc tự tại, giải thoát. Chính nơi dòng sông này, Người đã gội rữa hết mọi trần cấu bám chặt lâu nay. Con đường chứng đạo sẽ tìm ra trước khi ánh bình minh tỏa rạng.

“Ôi Người đã đến đây tắm rửa, Ta chờ đợi điều này biết bao – Dòng sông vui mừng reo lên và còn tỏa ra đôi chút tự hào – Có thể nay mai Người sẽ chứng ngộ, Ta sẽ là con sông hân hạnh được người đời nhắc nhỡ đến như là di tích đầu tiên của bực Đại giác trước khi đắc đạo.”

Lúc này không chỉ có dòng sông reo vui, mà hoa cỏ trong khu rừng cũng nở mầm tươi tắn hẳn lên, muôn loài chim thú hớn hở tụ tập quanh cội Bồ-đề xum xuê cành lá. Tất cả đang hướng lòng mình đến nơi Thái tử Tất-đạt-đa đang ngồi tĩnh tọa, chờ đợi những giây phút diệu kỳ sắp xảy ra.

Đêm về khuya cảnh vật chìm trong tĩnh lặng. Qua màn sương dày đặc của núi rừng, người ta vẫn cảm nhận ra một sức sống rất kỳ diệu, mênh mông lan tỏa khắp cùng vũ trụ nhân sinh. Thái tử Tất-đạt-đa vừa trải qua vòng tranh luận với nội tâm, khắc phục hết ma chướng. Từng bước… từng bước bức màn vô minh được Người vén mở dần ra, để lộ cả khoảng trời trong xanh vô tận. Từng đợt sóng trần trôi qua rồi vụt tan biến nhanh như chưa từng hiện hữu trong tâm trí rạng chiếu của Bậc giác ngộ. Một thân xác tự tại trong một trạng thái an nhiên tạo thành vừng hào quang sáng rực nơi Phật ngồi. Có cả ánh sáng của chư Thiên, Long, Thần, Thổ địa hiện đến từ chập tối hầu cận và cũng muốn tận cảm bao điều kỳ thú của Bậc toàn chân toàn giác.

Đêm ấy, dòng sông cũng ngưng mọi bước phiêu du của mình để được chiêm nghiệm cái thời khắc quan trọng đáng nhớ ấy. Một cơn gió thoảng, một chiếc lá rơi cũng trở nên sinh độngý nhị hơn mọi ngày. Bậc Đại giác đã chứng ngộ, một vị Phật đã ra đời. Thế gian tăm tối rồi đây sẽ được tận hưởng mọi ánh sáng của ánh đạo từ bi, trí huệ. Cuộc đời khổ đau bởi mãi lo tranh chấp vị kỷ, bởi những ham mê tham luyến, rồi sẽ được tắm mình trong dòng nước thuần lương đạo vị. Không gian mở rộngthời gian như dừng hẳn lại dưới chân bậc Đại giác, mọi cảnh vật cũng trở nên vi diệu, thâm trầm và sắc nét hơn.

Trước khi ánh ban mai đánh thức muôn loài, thì Sa môn Cù-đàm hoàn toàn chứng ngộ đạo quả xuất thế. Người rời khỏi gốc Bồ-đề, rời khỏi khu rừng thiêng yên tịnh để tìm về với phố thị xóm làng. Trước tiên, Phật đi đến vườn Lộc Uyển chuyển Pháp luân vô thượng. Sau đó trong suốt mấy mươi năm hành đạo, Người thuyết pháp độ sanh, cứu khổ hằng muôn triệu mảnh đời chìm đắm trong bể ái sông mê. Cho đến ngày trở về nơi cõi Niết-bàn tịch diệt, Phật không một lần trở lại nơi mình thành đạo trước kia. Gốc Bồ đề, con sông Ni Liên Thiền trầm lặng trở lại với tháng năm đời thường, sau khi hoàn thành vai trò lịch sử có một không hai của mình.

Dòng sông mang dòng chảy đi về nơi vô tận của biển trời, tưởng chừng như mọi việc đã trôi theo miền dĩ vãng xa xưa. Trải qua một thời gian lâu xa là vậy, mà con sông bên khu rừng Khổ Hạnh vẫn không khác mấy so với mấy ngàn năm trước. Và vì mang bên mình một giai thoại đặc biệt khi Phật còn tại thế, nên nhân loại đã không hề bỏ quên nó. Một nơi từng lưu bóng đức Tôn sư, có lúc chìm theo vận thế bôn ba thăng trầm. Thế rồi hơn hai ngàn năm sau, chính con người đã khơi thông lại nguồn chảy của nó, và trên lộ trình đi tìm dấu chân xưa, không ít người cứ đứng lặng mãi khi nhìn dòng nước lững lờ trôi mà cảm nhận bao sức sống diệu mầu đang tuôn vào tâm thức.

Một lần nữa, dòng sông êm ả lại cất lên tiếng nói của mình. Tiếng nói từ ngàn xưa vọng mãi đến ngàn sau, tiếng nói phát ra từ một chân lý đã trở thành bất diệtthế gian. Cho dù năm tháng có tàn phá hết mọi chứng tích, cho dù trò đời nhân ngã có làm phai nhạt niềm tin và hướng tới; nhưng dòng sông vẫn còn đó, để cho những nơi nó đi qua vẫn thấm đậm chất phù sa, làm thơm ngát mọi nẻo về chân thiện mỹ. Nơi dòng sông đi qua... còn in đậm dấu chân của Bậc giác ngộ đã trở thành một nơi chốn bình yên vĩnh cữu. ■

Nguồn: Tập San Pháp Luân 25


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2763)
Một người đàn ông ngã bệnh và tìm đến bác sĩ. Vị bác sĩ khám cho bệnh nhân này và sau đó viết cho anh ta một toa thuốc trên một mảnh giấy.
(Xem: 2542)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2237)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2665)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2540)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2372)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2678)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2449)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3262)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2331)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2421)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2557)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2475)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2556)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2221)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2587)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3057)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2655)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2723)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 3011)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2575)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2617)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4117)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2783)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3078)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3323)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2295)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2527)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2811)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 3014)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2880)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2625)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2639)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3195)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2598)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2281)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2395)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2491)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2606)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2696)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2762)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3279)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2566)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2135)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2606)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2058)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2833)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2923)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2957)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2727)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant