Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Những tháng ngày Đông giá

24 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 15264)
Những tháng ngày Đông giá


Cà phê chậm rãi nhỏ giọt, cái màu đen đặc sánh gợi một nỗi đau nhưng nhức. Bản Serenat của F.Schubert từ góc quán cất lên, bản nhạc mà thời còn đi học anh rất thích. Nhưng có những thứ quen thuộc trong quá khứ, tình cờ gặp lại khiến người ta buồn. Anh ngồi co ro, đăm chiêu nhìn ra dòng sông. Mưa phùn giăng giăng, gió lùa từng cơn lạnh buốt. Chiều nay khi rời nhà, mẹ bảo: “Ăn bận vậy mà đi đâu? Khoác thêm áo vào chứ không sẽ bị cảm lạnh đấy.” Anh làm thinh như không hề nghe tiếng mẹ, áo quần phong phanh ra đi. Tính anh xưa nay vẫn thế, thích gì làm đó, khó ai có thể khuyên bảo được anh. Người ta nói anh có tính ngông. Anh thì chẳng để ý đến những lời bàn tán của thiên hạ, mặc họ nói sao thì nói.

Đã lâu lắm rồi anh mới có dịp ngồi lại bên bờ sông này. Mười năm trước bờ sông này rất quen thuộc với anh, nhưng hồi đó ở đây người ta chưa đống kè và lát xi măng như bây giờ, dọc bờ sông này chưa hề có một quán café nào. Dạo đó ở đây người ta còn trồng đủ loại hoa màu theo thời vụ, khi thì ngô, khi thì đậu, bờ sông luôn mượt mà và êm ả. Còn bờ sông bên kia thì hình như không có gì thay đổi. Vẫn bờ tre xanh tốt, im lìm nghiêng rũ xuống dòng sông. Ngồi bên này vẫn có thể nhìn thấy ngôi chùa cỗ có mái rêu phong, ngôi chùa mà hồi đó anh thường cùng mẹ đi đò sang đó lễ Phật. Mẹ anh có đôi lần bảo anh xuất gia ở ngôi chùa này nhưng anh im lặng chẳng nói năng gì.

Rồi anh ra đi, mặc cho mẹ cản ngăn. Anh ra đi với một nỗi buồn, còn hơn thế, đúng hơn là một nỗi uất hận. Anh thấy mọi người đang quay lưng lại với mình, xa lánh mình, đang nhìn mình bằng cặp mắt xa lạ. Họ đang thấy nơi anh có những gì đó bất bình thường. Mà đôi khi anh nghĩ mình cũng bất bình thường thật. Chính sự có mặt của anh ở cuộc đời này cũng bắt đầu từ những gì không bình thường đấy thôi! Anh là một đứa trẻ bị bỏ rơi, được nhặt về nuôi. Từ khi anh biết được điều đó thì anh nghi ngờ về tất cả mọi thứ tình cảm. Tình thương cha mẹ, tình bạn, tình yêu… tất cả đối với anh chỉ là giả dối. Ngay cả người đã sinh ra anh mà còn nhẫn tâm quăng bỏ đi thì trên đời này còn có thứ tình thương gì chân thật! Anh không kết bạn, không mở lòng ra với ai, cũng không muốn đón nhận tình thương của ai; anh im lặng, ngạo nghễ, vô cảm với cuộc đời.

Anh đứng dậy trả tiền rồi bước ra khỏi quán. Trời vẫn lất phất mưa nhưng lạnh hơn. Anh đút tay vào túi, ngẫm nghĩ một lát rồi cuốc bộ xuống bến đò. Bến sông vắng tênh. Con sông mùa này như dài và rộng hơn, mặt nước lờ mờ khói sóng. Anh chợt nhớ đến hai câu thơ của Thôi Hiệu: “Nhật mộ thương quan hà xứ thị. Yên ba giang thượng sử nhân sầu.” Ông lái đò ngồi trên bờ chờ khách, co rúm hút thuốc. “Ông cho tôi qua sông.” - Anh nói, mắt nhìn lơ đãng. “Cậu đợi thêm lát nữa, có khách rồi qua luôn thể.” - Ông lái đò nhìn anh, vừa nhả khói vừa nói. Mười lăm phút trôi qua, anh buông lời hỏi trổng: “Biết khi nào mới có khách đây?” Ông lái đó vấn tiếp một điếu thuốc, uể oải đứng dậy, rồi vừa bước xuống đò vừa nói: “Tôi đưa một mình cậu sang vậy.” Anh bước xuống đò, cảm giác rợn lạnh lan khắp cơ thể. “Sao bây giờ khách lại vắng thế này?” - Anh hỏi. “Cách đây khoảng cây số người ta mới xây một cây cầu, nên bây giờ phần nhiều đều sang sông bằng cây cầu đó.” Ông lái đò nói và vứt điếu thuốc xuống nước. “Chèo đò đưa khách thế này thì làm sao sống nỗi?” “Thì biết làm nghề gì bây giờ!” - Ông lái đò buồn bả trả lời. Người ta để tồn tại được trên cõi đời này cũng khốn khổ thật - anh nghĩ - và lại một nỗi buồn nữa ngự trị. Đò ra giữa dòng, anh nhớ có lần cùng mẹ sang sông, bất chợt anh thốt lên câu nói thời danh của Héraclite mà anh đã đọc đâu đó: “Không ai tắm hai lần trên một dòng sông”, và mẹ anh nói: “Cái thằng, nói gì lạ vậy, người ta tắm cả ngàn lần nữa là hai lần.” Lúc đó anh chẳng phân trần gì với mẹ, mà tính anh xưa nay có chịu phân trần điều gì cơ chứ. Kỷ niệm đó khiến anh buồn, một nỗi buồn xa vắng. Đò đến bờ bên kia, anh trả tiền, khoát tay không nhận lại tiền thối. Nhưng ông lái đò không chịu, nhất định trả lại tiền thừa. Anh không hiểu người lái đò từ chối bởi không tham tiền hay do tự ái, tự trọng. Tự dưng anh thấy hay hay, mặc lý do ông từ chối là gì. Anh chào ông rồi bước lên bờ, hướng về phía ngôi chùa mà đi.

Anh ngập ngừng một lúc rồi bước vào chùa. Tiếp anh là một vị sư còn khá trẻ, trầm tĩnh và nói năng chừng mực. Anh thấy vị này quen quen, hình như hồi cùng mẹ sang đây anh đã có gặp, nhưng lúc đó vị này còn nhỏ. Cả hai người ngồi với nhau nhưng hình như không hỏi han gì về nhau nhiều. Điều này khiến anh cảm thấy dễ chịu. Ngồi một lát, vị sư nói: “Anh có lên chùa lễ Phật không?” “Vâng” - Anh gật đầu đáp rồi đứng dậy, bước ra phía hành lang dẫn lên chánh điện.

Ngôi chánh điện hình như không có sửa sang gì. Mọi thứ vẫn còn nguyên vẹn nhưng đang khoác thêm vẻ cũ kĩ của lớp bụi thời gian. Kỷ niệm chợt bùng khởi trong anh, buồn vui lẫn lộn. Anh vòng ra phía nhà tổ, khẻ rùng mình khi nhìn thấy bức ảnh của vị sư trụ trì năm xưa đang đặt trên bàn thờ. Vị sư đã qua đời! Lúc nãy vào chùa, anh đã linh cảm điều đó. Thời gian thật khốc liệt. Nó làm cho mọi vật tiến triển nhưng rồi lại đưa chúng đến chỗ tàn hoại diệt vong. Vị sư thường cười với anh giờ đã ra người thiên cổ. Thế nhưng sao thời gian không giúp anh xóa đi nỗi đau cứ âm ĩ trong cơ thể. Nỗi đau ấy không hề vơi giảm mà ngày càng như lớn lên thêm. Cha mẹ anh là ai? Tại sao họ lại vứt bỏ anh? Những câu hỏi ấy ngày càng bám riết lấy anh. Đôi khi anh tự an ủi: Mọi thứ trên đời này đều là giả tạm, quan hệ giữa cha mẹ và con cái cũng chỉ là tương đối thôi, buồn khổ làm gì. Nhưng rồi anh vẫn không dứt được những suy nghĩ đó. Anh bỏ nhà ra đi, biền biệt không trở về vì muốn quên đi thân phận. Nhưng rồi anh không thể thoát khỏi những suy nghĩ kia. Nỗi đau vẫn đè nặng lên anh, gây nhức nhối vô hạn.

Sau lần ra đi đó, anh quyết sẽ không trở về nhà nữa. Nhưng tháng rồi khi mẹ gọi điện vào bảo rằng, nếu lần này anh không về thì bà sẽ vào. Nghe giọng bà cả quyết quá anh đành phải về. Và có lẽ đây là lần đầu tiên anh chiều ý bà. Mẹ anh rất tốt với anh, nhưng anh vẫn luôn nghi ngờ về thứ tình cảm đó. Anh cứ luôn nghĩ rằng, giả sử mẹ anh có một đứa con ruột thì liệu bà có nhận anh về nuôi và có chiều chuộng anh như vậy không. Bởi vậy, anh luôn đáp lại sự chiều chuộng thương yêu của bà bằng một thái độ vô cùng hững hờ. Mẹ anh cũng biết điều đó, bà rất buồn, tuy vậy lại thương anh nhiều hơn. Nhưng đôi khi anh cũng thấy thương bà và thấy mình mang nợ bà lớn quá. Từ một người không quen biết, bà đã nhận nuôi anh, cưu mang anh bằng tình thương của một người mẹ. Anh biết bà cũng có nỗi đau của riêng bà, nhưng rồi anh lại không thể xích lại gần bà để chia sẻ, trong khi nỗi đau trong anh cứ ngày mỗi lớn dần.

Giờ thì vị sư trụ trì năm xưa đã không còn nữa. Anh thấy mình nợ ông một điều gì đó chưa trả được. Nợ một nụ cười! Đúng rồi, nợ một nụ cười. Nụ cười mà ông thường dành cho anh và mẹ anh luôn bảo đó là nụ cười từ bi. Nhưng chưa bao giờ anh đón nhận nụ cười đó, vì anh vẫn nghi ngờ về hai chữ từ bi, nghĩ rằng đời này làm gì có người từ bi thực sự! Hình ảnh của vị sư năm xưa giờ còn đó, vẫn khuôn mặt và nụ cười hiền hậu thuở nào. Anh chợt nhớ ông, thấy có lỗi với ông. Anh đã ra đi mà không đến chào ông lấy một lời. Tại sao anh lại cho đó không phải là nụ cười từ bi như mẹ bảo nhỉ? Có phải tin như vậy thì anh đỡ khổ hơn không! Giờ thì anh thèm được gặp ông để đón nhận nụ cười đó. Có thể những người sinh ra anh đã vứt bỏ anh, nhưng đời này vẫn có thể có người thương yêu anh thực sự chứ. Đôi khi có những người thân gây cho ta đau khổ nhưng cũng có những người không quen biết lại đem đến cho ta niềm vui! Cuộc sống với sự đa dạng của nó làm sao anh hiểu hết được. Anh đứng lặng người với bao suy nghĩ xáo trộn, quên mất cả việc đốt một cây nhang để thắp lên bàn thờ. “Anh có điều gì xúc động?” Tiếng của vị sư trẻ phía sau lưng đã đưa anh ra khỏi dòng suy nghĩ. Anh im lặng lắc đầu, nhưng không hề quay mặt lại. Vị sư nói: “Tôi đã nhận ra anh ngay khi anh vừa bước vào chùa. Đối với anh, mười năm chưa đủ dài để tôi quên đi được. Mà có lẽ anh cũng nhận ra tôi, phải không? Thầy tôi luôn nhắc đến anh, ông thật sự rất thương anh. Thầy tôi mất đã bốn năm rồi. Anh thắp nhang cho ông đi.” Anh im lặng một lúc rồi sụp người xuống, nước mắt bắt đầu lăn dài trên gò má khắc khổ xanh xao.

* * *

Anh thức dậy với cơn ho kéo dài. Hôm qua khi từ chùa trở về anh đã ngã bệnh vì dầm mưa. Anh đã nằm mê man từ tối hôm qua đến giờ. Mở mắt ra, anh đã thấy mẹ ngồi một bên, đôi mắt quầng thâm bởi lo lắng và buồn khổ. Anh nắm lấy tay bà, từ trong sâu thẳm cõi lòng anh đã thốt lên tiếng gọi thiêng liêng mà bấy lâu nay anh vẫn gọi một cách dè dặt: Mẹ!

Nguồn: Tập San Pháp Luân 24


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2531)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2224)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2658)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2525)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2352)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2667)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2438)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3248)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2321)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2411)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2544)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2467)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2540)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2211)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2579)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3048)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2651)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2708)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 2995)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2558)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2592)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4098)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2774)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3066)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3308)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2290)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2501)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2803)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 3001)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2870)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2608)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2634)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3189)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2595)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2271)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2387)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2478)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2596)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2689)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2745)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3266)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2556)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2131)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2599)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2052)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2817)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2905)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2939)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2714)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 2509)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant