Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Nơi dòng sông đi qua

24 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 16671)
Nơi dòng sông đi qua

Con sông hiền hòa chảy qua bao miền thâm u của miền Trung du Ấn Độ mà dòng lịch sử dung rũi đã cho nó khoát lên mình một sứ mạng thiêng liêng cao cả. Con sông Ni Liên Thiền, tên gọi đó đã gắn liền với sự chứng đắc của một bực Thánh nhân xuất thế - Thái tử Tất-đạt-đa, Người đã đến bên dòng sông này sau sáu năm tu khổ hạnh. Và cuộc đời của một dòng sông bắt đầu có tiếng nói riêng từ dạo ấy.

Vậy là hơn hai mươi lăm thế kỷ trôi qua rồi. Chừng ấy thời gian với biết bao biến chuyển thay đổi của dòng đời, mà vết tích của một con sông vẫn còn đó đủ để khơi dậy niềm tin và hướng đến cho mỗi ý tưởng và bước chân người tìm tới. Rồi một lần nào đó, con sông đã kể lại sự kiện mà nó từng là chứng nhân đặc biệt trong suốt thời kỳ Chánh pháp hiện hữu tại thế gian.


Vào ngày cuối Đông, cuộc sống thâm trầm và tẻ nhạt của những cư dân sống quanh ven rừng bỗng nhiên sôi động hẳn lên. Mọi người kháo với nhau:

“Bên dòng sông Ni Liên Thiền đang nở đầy hoa… đủ sắc đủ màu trông đẹp lắm!” Hoa rừng nở không có gì lạ. Song lúc này là mùa Đông, ở xứ Ưu-lâu-tần-loa này đang hứng chịu trận bão tuyết kéo dài. Đất đai co rúm cơ hồ để được ngũ yên mà chờ đợi cho qua mùa băng giá. Cây cối chỉ còn lại vài cành khẳng khiu khô khốc, màu xanh của lá của hoa lúc này nếu có cũng bị bao phủ hết bởi lớp băng dày đặc.

Ấy vậy mà… họ bảo có cả muôn loại chim cùng hát vang nơi khu rừng ấy nữa. Ồ! Chim ở đây về mùa Đông, chúng thường bay về phương Nam tìm nơi ấm áp hơn để trú ẩn. Hoa nở chim hót, quả là một điều chưa từng thấy ở xứ sở mang đầy tính chất kỳ bí pha trộn của mọi thứ tôn giáo. Rồi cũng có ai đó lên tiếng trước: “Thái tử Tất-đạt-đa vừa chứng đạo bên khu rừng ấy, nên mới có điềm lành xuất hiện.”

Những người dân lam lủ nhưng lại rất thông thái về các hiện tượng tâm linh huyền bí. Họ kể cho nhau nghe về cuộc đờicon đường tu tập của một vị Thái tử tu hành vừa đắc quả và cả lời tiên đoán của vị tiên A-tư-đà năm xưa khi Thái tử vừa ra đời nơi xứ Ca-tì-la-vệ xa xôi nào đó. Dòng sông yên lặng nghe họ nói chuyện. Không ai nghĩ hoặc biết được chính nó là kẻ duy nhất chứng kiến toàn bộ quá trình tu tậpchứng đắc của Thái tử. Mấy năm trước, Thái tử Tất-đạt-đa đã tìm đến bên dòng sông vắng vẻ này, sau nhiều lần tầm sư học đạo nhưng không nhận thấy pháp tu nào có thể đưa đến một chân trời an lạc giải thoát toàn mỹ.

Vì thế, dòng sông cảm thấy mình thật diễm phúc khi được Thái tử chọn làm điểm dừng chân cuối cùng cho giai đoạn tiến tu, đắc đạo:

Ở nơi đây Người đã tới,
Dòng sông thôi yên lặng với tháng ngày
Ở nơi đây Người đã thấy
Vầng trăng thanh soi sáng bấy đêm dài.

Vai trò của dòng sông chỉ có thế thôi và nó chẳng mong cầu gì hơn nữa. Trước khi dòng chảy này đổ vào con sông Hằng bao la huyền bí, nó đã đi qua bao khu rừng yên tịnh, nhiều đất nước mênh mông trù phú và những làng mạc nghèo khổ xa xôi. Để rồi một hôm, sông chợt thấy mặt đất như tỏa sáng hơn, chim chóc các nơi kéo về làm tổ nhiều hơn. Dòng sông nhìn thấy bóng vị Sa môn ngồi tư duy tịnh niệm bên dưới một gốc cây cao tỏa bóng. Ở đây cũng từng đón nhận nhiều Sa môn khác đến tu tập, chắc hẳn bởi không khí trong lành nằm bên dòng sông hiền hòa quanh năm quạnh vắng.

Nhưng với vị Sa môn khổ hạnh này, sông cảm nhận ra sự khác biệt hơn hết với những ai đã từng đến đây. Cũng vóc dáng gầy khô trong mảnh y vàng bạc thếch, nhưng sắc tướng tỏa sáng như trăng rằm, nội tâm tỉnh lặng thông thái đến diệu kỳ. Người tu tập mỗi ngày đứng lên, đi lại đôi phút và chỉ ăn vài hạt đậu mè của chim rừng tha về vương vãi bên các gốc cây. Đã sáu năm rồi, Sa môn Cù-đàm – Dân làng vẫn gọi như vậy – chưa lần bước đến bên dòng sông, hoặc giả như có nhìn qua con sông hay các vật thể nào khác thì cũng chỉ nhìn mà thôi, trong khi cõi lòng Người đang bận dõi tìm bao ý hướng diệu mầu, một con đường thiết thực thoát khổ cho muôn loài.

Sáu năm ròng rã chuyên tâm tu khổ hạnh như vậy, Sa môn đuối sức dần. Một hôm, Sông thấy Người ngất đi bên bìa rừng. Nó vội lớn tiếng gọi nhưng chỉ nghe tiếng xào xạc của lá cây rừng xung quanh đáp lại, cùng với tiếng của dòng sông chảy miên man tuôn mãi giữa chốn đại ngàn. Bỗng một cô gái chăn cừu đã nghe tiếng dòng sông hay chỉ tình cờ đi ngang qua nhìn thấy, liền chạy đến bên Người. Cô vội lấy bát đi xuống sông rửa sạch, vắt lấy sữa cừu, sau đó đổ vài giọt sữa vào miệng Sa môn. Người tỉnh dần rồi mở mắt ra nhìn. Cô gái lúc này - vì thuộc dòng tộc thấp kém hơn – nên đặt bát sữa từ xa để dâng cúng cho Sa môn.

Nhờ bát sữa Sa môn Cù-đàm hồi phục sức lực nhanh chóng. Dùng xong, Người đặt bát nơi gốc cây và thầm chú nguyện cho cô gái chăn cừu. Lúc này mặt trời dần ngã bóng về Tây, mọi vật hối hả trước khi cảnh chiều đông buông xuống. Ngắm nhìn hoàng hôn bên dòng sông giây lát, Người bèn lội xuống tắm rửa. Dòng sông trong xanh mang hương vị nồng dịu của muôn thứ cỏ hoa khô đọng lại, càng làm cho Người sảng khoái minh mẫn. Sau khi bước lên khỏi dòng sông, Người đã nhận ra chân lý diệu mầu, và cần trải nghiệm thêm một giai đoạn ngắn nữa để chứng thực. Quán xét lại sự tu tập của mình lâu nay, Sa môn đã nhận được một điều chính yếu: Không thể có sự chứng ngộ trong một thân thể gầy mòn mệt mỏi cùng tâm hồn khô cứng như sỏi đá. Con đường trung đạo là bước khởi đầu để vươn tới một chân trời an lạc tự tại, giải thoát. Chính nơi dòng sông này, Người đã gội rữa hết mọi trần cấu bám chặt lâu nay. Con đường chứng đạo sẽ tìm ra trước khi ánh bình minh tỏa rạng.

“Ôi Người đã đến đây tắm rửa, Ta chờ đợi điều này biết bao – Dòng sông vui mừng reo lên và còn tỏa ra đôi chút tự hào – Có thể nay mai Người sẽ chứng ngộ, Ta sẽ là con sông hân hạnh được người đời nhắc nhỡ đến như là di tích đầu tiên của bực Đại giác trước khi đắc đạo.”

Lúc này không chỉ có dòng sông reo vui, mà hoa cỏ trong khu rừng cũng nở mầm tươi tắn hẳn lên, muôn loài chim thú hớn hở tụ tập quanh cội Bồ-đề xum xuê cành lá. Tất cả đang hướng lòng mình đến nơi Thái tử Tất-đạt-đa đang ngồi tĩnh tọa, chờ đợi những giây phút diệu kỳ sắp xảy ra.

Đêm về khuya cảnh vật chìm trong tĩnh lặng. Qua màn sương dày đặc của núi rừng, người ta vẫn cảm nhận ra một sức sống rất kỳ diệu, mênh mông lan tỏa khắp cùng vũ trụ nhân sinh. Thái tử Tất-đạt-đa vừa trải qua vòng tranh luận với nội tâm, khắc phục hết ma chướng. Từng bước… từng bước bức màn vô minh được Người vén mở dần ra, để lộ cả khoảng trời trong xanh vô tận. Từng đợt sóng trần trôi qua rồi vụt tan biến nhanh như chưa từng hiện hữu trong tâm trí rạng chiếu của Bậc giác ngộ. Một thân xác tự tại trong một trạng thái an nhiên tạo thành vừng hào quang sáng rực nơi Phật ngồi. Có cả ánh sáng của chư Thiên, Long, Thần, Thổ địa hiện đến từ chập tối hầu cận và cũng muốn tận cảm bao điều kỳ thú của Bậc toàn chân toàn giác.

Đêm ấy, dòng sông cũng ngưng mọi bước phiêu du của mình để được chiêm nghiệm cái thời khắc quan trọng đáng nhớ ấy. Một cơn gió thoảng, một chiếc lá rơi cũng trở nên sinh độngý nhị hơn mọi ngày. Bậc Đại giác đã chứng ngộ, một vị Phật đã ra đời. Thế gian tăm tối rồi đây sẽ được tận hưởng mọi ánh sáng của ánh đạo từ bi, trí huệ. Cuộc đời khổ đau bởi mãi lo tranh chấp vị kỷ, bởi những ham mê tham luyến, rồi sẽ được tắm mình trong dòng nước thuần lương đạo vị. Không gian mở rộngthời gian như dừng hẳn lại dưới chân bậc Đại giác, mọi cảnh vật cũng trở nên vi diệu, thâm trầm và sắc nét hơn.

Trước khi ánh ban mai đánh thức muôn loài, thì Sa môn Cù-đàm hoàn toàn chứng ngộ đạo quả xuất thế. Người rời khỏi gốc Bồ-đề, rời khỏi khu rừng thiêng yên tịnh để tìm về với phố thị xóm làng. Trước tiên, Phật đi đến vườn Lộc Uyển chuyển Pháp luân vô thượng. Sau đó trong suốt mấy mươi năm hành đạo, Người thuyết pháp độ sanh, cứu khổ hằng muôn triệu mảnh đời chìm đắm trong bể ái sông mê. Cho đến ngày trở về nơi cõi Niết-bàn tịch diệt, Phật không một lần trở lại nơi mình thành đạo trước kia. Gốc Bồ đề, con sông Ni Liên Thiền trầm lặng trở lại với tháng năm đời thường, sau khi hoàn thành vai trò lịch sử có một không hai của mình.

Dòng sông mang dòng chảy đi về nơi vô tận của biển trời, tưởng chừng như mọi việc đã trôi theo miền dĩ vãng xa xưa. Trải qua một thời gian lâu xa là vậy, mà con sông bên khu rừng Khổ Hạnh vẫn không khác mấy so với mấy ngàn năm trước. Và vì mang bên mình một giai thoại đặc biệt khi Phật còn tại thế, nên nhân loại đã không hề bỏ quên nó. Một nơi từng lưu bóng đức Tôn sư, có lúc chìm theo vận thế bôn ba thăng trầm. Thế rồi hơn hai ngàn năm sau, chính con người đã khơi thông lại nguồn chảy của nó, và trên lộ trình đi tìm dấu chân xưa, không ít người cứ đứng lặng mãi khi nhìn dòng nước lững lờ trôi mà cảm nhận bao sức sống diệu mầu đang tuôn vào tâm thức.

Một lần nữa, dòng sông êm ả lại cất lên tiếng nói của mình. Tiếng nói từ ngàn xưa vọng mãi đến ngàn sau, tiếng nói phát ra từ một chân lý đã trở thành bất diệtthế gian. Cho dù năm tháng có tàn phá hết mọi chứng tích, cho dù trò đời nhân ngã có làm phai nhạt niềm tin và hướng tới; nhưng dòng sông vẫn còn đó, để cho những nơi nó đi qua vẫn thấm đậm chất phù sa, làm thơm ngát mọi nẻo về chân thiện mỹ. Nơi dòng sông đi qua... còn in đậm dấu chân của Bậc giác ngộ đã trở thành một nơi chốn bình yên vĩnh cữu. ■

Nguồn: Tập San Pháp Luân 25


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2065)
Sống ở đời ai cũng mong cầu được hạnh phúc. Hạnh phúc là gì?
(Xem: 2214)
Ở đời bất cứ sự kiện nào xảy ra cũng có nguyên do của nó. Như bài kinh “Bát Đại Nhân Giác” xuất hiện trên thế gian này cũng không ngoại lệ.
(Xem: 1711)
Hai chữ vô thường rất quen thuộc với mọi người chúng ta, trong đời sống hàng ngày ai ai cũng nghe và nói.
(Xem: 2034)
Tư tưởng nhân quả Phật giáotư tưởng nổi bật trong nhân sinh quan Phật giáo.
(Xem: 1738)
Chúng ta đang chứng kiến những bất ổn xã hội hay thiên tai trên toàn thế giới, Việt Nam không phải là ngoại lệ khi gần đây
(Xem: 1723)
Sống phải có niềm tin, nhưng đừng tin quá vào một người, dù người đó là ai, có địa vị như thế nào trong xã hội.
(Xem: 1895)
Đức Phật đã dạy cho hàng đệ tử về mối tương quan và lợi ích của việc thực hành bốn nhiếp pháp trong Kinh Tăng Chi Bộ,
(Xem: 1906)
Đức Phật Thích Ca Như Lai của chúng ta, lúc mới phát tâm, đã vì ta mà tu Bồ tát đạo, trải qua vô lượng kiếp chịu đủ các thứ khổ cực.
(Xem: 1559)
“Không làm các việc ác Siêng làm các việc lành Thanh tịnh hoá tâm ý…”
(Xem: 1730)
Việc khấn nguyện, cầu nguyện là một vấn đề tâm linh rất phổ biến của tín đồ mọi tôn giáo và không cứ gì mùa xuân mà việc khấn nguyện...
(Xem: 2072)
Hồi sáng, lúc đi thiền hành ở Xóm Thượng, tôi đi xuôi xuống chùa Sơn Hạ. Mỗi bước chân giúp tôi tiếp xúc với sự sống rất sâu sắc
(Xem: 1823)
Chế độ ăn kiêng của bạn có thể giúp dự đoán bạn sống được bao lâu.
(Xem: 2387)
Đức Phật dạy “Thân người khó được, Phật pháp khó nghe”. Biết điều này, khi được là con Phật, ta sẽ thấy mình thật hạnh phúc vì ...
(Xem: 1716)
Không ít Phật tử đến chùa quy y, học Phật pháp, công quả, tham gia các hoạt động Phật sự, thường theo cảm tình đối với người Thầy ở nơi mình đến hơn là...
(Xem: 1719)
Giữ năm giới là khó, giữ gìn một cách hoàn hảo càng khó hơn. Muốn giữ giới hoàn hảo, trước phải học và thông hiểu về mỗi giới
(Xem: 1674)
Đóng cửa các nẻo đường xấu ác để chúng sanh không bị sa rớt xuống các nẻo địa ngục, quỷ đói, súc sanh.
(Xem: 2125)
“Chớ bảo xuân tàn, hoa rụng hết. Đêm qua sân trước một cành mai”
(Xem: 1949)
Người ta nói uống trà là thú vui tao nhã, thanh cao. Thú vui cuộc đời nói chung có hai loại là thanh cao và không thanh cao.
(Xem: 2087)
Mỗi khi mùa xuân mới về là trời đất lại thanh tân, vạn vật muôn loài thay áo mới nhưng lòng người thì vẫn cũ, vẫn chẳng đổi thay,
(Xem: 1630)
Nếu mùa xuân là cái gì tươi đẹp nhất thì đó phải là vẻ đẹp từ sự biết ơn trong tâm hồn của mỗi người.
(Xem: 2248)
Mùa xuân hải ngoại trời lạnh lắm nhưng lòng người ấm áp vì nhớ về những mùa xuân dân tộc.
(Xem: 1595)
Không biết từ khi nào, có lẽ từ lâu lắm rồi, trà là một trong những thứ không thể thiếu trong các gia đình của người phương Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng.
(Xem: 1873)
Mùa xuân là mùa khởi đầu năm mới. Năm mới thường mở đầu bằng một mùa xuân mơ ước đầy khát vọng, hoài bão.
(Xem: 1759)
Bóng chiều ngã dài, trên sườn đồi, vài sợi mây xanh vươn vấn, tiếc nuối dư hương nhạt nhòa, chạnh lòng băng giá khách tha phương tìm về cố quốc
(Xem: 1823)
Đạo đức học Phật giáo là một hệ giá trị bền vững cùng năm tháng, xuất phát từ tuệ nhãn của bậc Thiện Thệ hơn hai nghìn sáu trăm năm trước.
(Xem: 1669)
Trong Trung luận hay Trung đạo luận hay Trung quán luận (Mulamadhyamakakarika, Căn bản Trung luận tụng), bản văn căn bản của ngài Long Thọ,
(Xem: 2404)
Ngày Tết cũng là dịp để những người con Phật suy nghiệm về lẽ vô thường biến dịch của vạn pháp và của chính thân phận mình.
(Xem: 2119)
Sự tha thứ chữa lành vết thương cho người mà bạn cho là đã xúc phạm và chính bạn, người bị xúc phạm.
(Xem: 2068)
Cuối thế kỉ XIX cờ Phật giáo được thiết kế nhằm tượng trưngđại diện một cách thống nhất cho Phật giáo và được Phật tử trên khắp thế giới sử dụng.
(Xem: 1870)
Ngôn ngữ là hình thái biểu đạt ý tưởng.Tùy mỗi chủng loại có một âm ngữ riêng; âm ngữ của con người thể hiện qua ngôn ngữ ...
(Xem: 2220)
Chúng ta thường đấu tranh với việc chọn món quà nào là hoàn hảo. Chúng ta tập trung sự chú ý của mình chủ yếu vào các đối tượng và sự kiện.
(Xem: 1794)
Thực hành Tịnh độđơn giản. Cách tu tập này không yêu cầu hành giả phải được học về tư tưởng Phật giáo hoặc đặc biệt về giới, về thiền hoặc kỷ luật tâm linh.
(Xem: 1918)
Một trong những kết luậnPhật giáo và các nhà khoa học đều đồng ý là không có đấng tạo hóa.
(Xem: 2153)
Thiền pháp tỉnh thức (mindfulness meditation) đang trở thành một trong các khuynh hướng ưu thắng của nhiều lĩnh vực hoạt động tại Hoa Kỳ và nhiều nước khác.
(Xem: 1681)
Đức Phật giảng dạy tám mươi bốn ngàn pháp môn, mỗi pháp môn phù hợp cho trình độcăn cơ của chúng sinh tiếp nhận,
(Xem: 1937)
Niềm tin là nguồn nguyên liệu cần thiết cho sự sống. Không có niềm tin, con người ta sẽ chết, hoặc sống gần như chết
(Xem: 1932)
Tu, rốt cuộc là để nhìn vạn pháp đúng như chính nó.
(Xem: 2150)
Niệm Phật là một pháp môn dễ học, dễ tu, được đức Phật dạy rất sớm, rất nhiều trong các kinh, từ kinh Nikaya hệ thống ngôn ngữ Pali của Phật giáo Nguyên thủy.
(Xem: 1927)
Bài kinh “Bốn Hạng Người Hiện Hữu Ở Đời” được ghi lại trong Tăng Chi Bộ Kinh I, chương 4, phẩm Bhandagàma, phần Thuận Dòng.
(Xem: 1767)
Bài viết này được biên soạn bởi có nhiều Tỳ khưu hỏi tôi về những giới luật sử dụng tiền bạc được tìm thấy trong vinaya (Tạng Luật).
(Xem: 1749)
Đạo Phật có phải là một tôn giáo không là một câu hỏi không mới nhưng không cũ đối với những ai đến với đạo Phật chỉ bằng con đường tín ngưỡng đơn thuần.
(Xem: 1757)
Đi chùa lễ Phật, cầu gia hộ. Trước buổi học Phật pháp, hay lễ hội Phật sự, nghi thức đầu tiên đều là “niệm Phật cầu gia hộ”.
(Xem: 1868)
Đúng là nếu giữ được năm giới thì cơ bản sẽ không rơi vào ba đường ác và được tái sinh ít nhất là vào cõi người,
(Xem: 2158)
Trong kinh Thừa tự pháp, đức Phật dạy hàng đệ tử nên thừa tự giáo pháp của Ngài chứ không nên thừa tự tài vật của Ngài.
(Xem: 1712)
Trong các kinh Bát nhã ba la mật giảng nói nhiều về tánh Không với những phẩm tính như vô tự tánh, vô sở hữu, bất khả đắc, vô sanh, như huyễn…
(Xem: 1684)
Phật phápgiáo lý của Đức Phật. Gọi là giáo lý tức là nhằm chỉ đến giáo dục với tất cả các phạm trù
(Xem: 2248)
Con người vĩ đại đó, tấm lòng trí tuệ đó, phương pháp giáo dục siêu việt đó của đức Phật đã khiến muôn nghìn trái tim của nhân loại hướng về Ngài
(Xem: 1956)
Định hướng tư tưởng là một vấn đề vô cùng quan trọng trong đời sống sinh hoạt của con người.
(Xem: 1777)
Ngược dòng lịch sử hơn 2.500 năm về trước ở xứ Ấn Độ, trước khi Đức Phật ra đời, nơi đây đã đơm hoa kết trái nhiều hệ tư tưởng khác nhau.
(Xem: 2352)
Con người sinh ra đời, sống và lớn lên trong gia đình được ấp ủ bởi tình thương của cha mẹ, tình anh chị em, tình bà con dòng họ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant